Đóng góp của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu lịch sử Nam Bộ triều Nguyễn thế kỷ XIX
Lê Thọ Xuân (1904 - 1978) là nhà nghiên cứu tiêu biểu ở Nam Bộ về lịch sử triều
Nguyễn. Bài viết nhằm tìm hiểu những đóng góp của ông trong nghiên cứu về
lịch sử Nam Bộ triều Nguyễn trên ba phương diện: phương pháp, sử liệu và sử
luận. Về phương pháp nghiên cứu, ông kết hợp giữa phương pháp sử học
truyền thống và phương pháp thực chứng hiện đại, nghiên cứu lịch sử trên nền
tảng địa lý và địa danh, kết hợp khảo cứu sử liệu với khảo sát thực địa, chuyên
về nghiên cứu vi mô. Về sử liệu, ông sưu tầm, phát hiện, tái phát hiện nhiều tài
liệu quan trọng, đồng thời phê phán, đính chính một số sử kiện đã bị sử dụng,
diễn giải sai lạc, dẫn đến hiểu nhầm. Về sử luận, dựa trên cơ sở vững chắc về
phương pháp và sử liệu, ông đã đưa ra những đánh giá, nhận định có sức
thuyết phục cao, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử và sử học Nam Bộ thế kỷ XIX.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đóng góp của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu lịch sử Nam Bộ triều Nguyễn thế kỷ XIX
mơ hồ, mà rất thận trọng, „Lửa! Lửa‟ ! Thôn dân, cây, dây, gàu, kiệm lời, rõ ràng. Phần sử luận của Lê đuốc những đồ bỏ sẵn để khi nghe mõ Thọ Xuân thể hiện trên hai góc độ. thì vác chạy cho mau, đổ xô về phía Thứ nhất là nhận xét của Lê Thọ Xuân xảy ra hỏa hoạn. Ai nấy đều đứng đối với các sự kiện, nhân vật, vấn đề quanh cái nhà lá cũ đƣơng cháy rực lịch sử ông đặt ra. Ví dụ nói về cái trời mà than dài mà chắt lƣỡi. Ngƣời chết của danh tƣớng Đỗ Thanh Nhân: ngƣời bảo chuyền nhau: „Lửa cháy “Phƣơng quận công Đỗ Thanh Nhân tiêu nhà ông Đồ! Tội nghiệp quá! Tội phải bị đòi vào cung rồi chịu cho bao nghiệp quá!‟ Mà ông Đồ có còn đâu nhiêu gƣơm đao vô tình của bọn võ sĩ lúc ấy” (Lê Thọ Xuân, 2019b: 151). sả tan bầm nhỏ!” (Lê Thọ Xuân, 1943c: Hoặc nói về “Quan lớn Cái Da” 3), “Mồ mả của Nhân xiêu lạc về đâu Trƣơng Tấn Bửu, nhiều công lao mà ít có ai còn đƣợc biết! Cái đƣợc biết ngƣời biết: “Vốn đồng thời cùng Tả chăng chỉ là chút ít về tiểu sử của quân Quận công Lê Văn Duyệt, Long Nhân: Sự nghiệp anh hùng có thế Vân hầu cũng nhƣ Lê Tổng trấn là dày thôi” (Lê Thọ Xuân, 1943b: 17). Nói về gian lao với ngôi nhà Nguyễn, dày cái chết của Võ Tánh: “Vị anh hùng công đức với đất Đồng Nai. Vốn đồng minh đạt hơn ngƣời, trí dõng xuất quận cùng Hiệp biện Đại học sĩ Phan chúng, họ Võ tên Tánh, con ruột của Lƣơng Khê, Long Vân hầu cũng nhƣ xứ Đồng Nai” (Lê Thọ Xuân, 1943d: 7) Phan Kinh lƣợc làm quan đến hạng và cảnh Võ Tánh tự thiêu trên lầu bát nhứt phẩm, cai trị cả xứ Nam Kỳ mà giác: “Đƣơng hút thuốc, Hậu quân Võ vẫn trì thân thanh bạch, lại thêm Tánh ném tàn xuống đống củi khô. quảng đại từ hòa, khiến ai ai cũng Hỏa đƣợc phát mạnh, củi khô bắt theo, kính phục mà không sợ sệt, cũng mến lửa phừng phừng cháy lên để thành yêu mà không khinh lờn. Vậy, mỗi khi hai câu: „Bát giác hỏa đồng tâm cộng nhắc đến Chánh tƣớng Duyệt, ta sao xích, Thiên thu danh dữ nhật tranh khỏi nhắc đến Phó tƣớng Luông, mỗi hồng‟(4), hay để cho ngƣời sau, mỗi khi nhắc đến „Quan lớn Bảo Thạnh‟ LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN 69 Kinh lƣợc sứ Phan Lƣơng Khê, ta sao Tất cả những điều trên tạo nên đặc khỏi nhắc đến „Quan lớn Cái Da‟ Long điểm thứ nhất trong phong cách sử Vân hầu Trƣơng Tấn Bửu” (Lê Thọ luận của Lê Thọ Xuân. Xuân, 1959: 31). Thứ hai là đánh giá của Lê Thọ Xuân Những đoạn văn vừa dẫn đã biểu lộ đối với các nghiên cứu lịch sử của tình cảm của Lê Thọ Xuân trong việc người khác. Các đánh giá này có khi nghiên cứu nhân vật lịch sử. Ở đây dù từ tốn, nhã nhặn, nhƣ khi đọc một số ông dùng nhiều câu cảm thán và giàu phần trong bản dịch bộ Đại Nam nhất chất văn chất thơ, nhƣng chúng ta thống chí – Lục tỉnh Nam Việt do cũng thấy, tình cảm ấy đƣợc tiết chế những ngƣời khoa bảng tên tuổi dịch một cách chừng mực, từ ngữ mang và hiệu đính, Lê Thọ Xuân đã viết “vài cảm xúc nhƣng không bộc lộ thiên cảm tƣởng”, viết xong ông lại gởi đến kiến chủ quan phi thực chứng. Vì vậy, ba ngƣời bạn thân “nhờ xem lại giùm tuy Lê Thọ Xuân thể hiện thái độ bùi cho thật kỹ, nếu thấy chỗ nào có vẻ ngùi đối với cái chết của Đỗ Thanh vạch lá tìm sâu hay khoe khoang Nhân, thể hiện thái độ cảm phục cái phách lối thì thẳng thắn chỉ bảo hoặc chết của Võ Tánh, thể hiện thái độ tự tiện sửa chữa” (Lê Thọ Xuân, đau thƣơng đối với cái chết của 1967a: 82). Trƣớc khi đi vào bàn bạc Nguyễn Đình Chiểu, thể hiện thái độ chi tiết về “chữ dùng”, “phiên âm” và xót xa đối với Trƣơng Tấn Bửu vì bị “dịch nghĩa” của bản dịch, Lê Thọ hậu thế lãng quên, nhƣng những tình Xuân rào đón trƣớc bằng những lời cảm riêng tƣ này của sử gia cũng khiêm tốn: “Rồi, thúc đẩy bởi duyên không khiến ngƣời đọc cảm thấy bị văn tự, thúc đẩy bởi lòng cầu học, tôi dẫn dắt hay định hƣớng, không làm thấy không đƣợc không chép ra vài mất tính khách quan của vấn đề mà cảm tƣởng của một độc giả quý mến Lê Thọ Xuân đã nỗ lực hƣớng đến địa dƣ nƣớc nhà, chớ không phải viết thông qua những sử liệu mà ông đã một bài phê bình và nhứt là không dày công tìm kiếm, trình bày, phê bình chút nào cố ý vạch lá tìm sâu. Và, nhƣ bằng những cách thức, phƣơng pháp vầy, tôi cũng đã mạo muội làm một mà ông cho là thích hợp nhất dành việc „múa rìu qua mắt thợ‟” (Lê Thọ cho đối tƣợng nghiên cứu của mình. Xuân, 1967a: 83-84). Lê Thọ Xuân xác định quan điểm Cũng có khi đánh giá của Lê Thọ “không tiểu thuyết hóa”, “không thần Xuân thẳng thắn gay gắt, vì tinh thần thánh hóa” các nhân vật lịch sử. Vì khoa học, không ngại đụng chạm đến vậy, tuy đôi khi ngƣời đọc thấy ông những ngƣời có danh vọng đƣơng thể hiện tình cảm trên bài viết, song thời nhƣ Ngô Tất Tố, Dƣơng Quảng những đánh giá của ông đều thể hiện Hàm, Dƣơng Bá Trạc, Phan Khôi, Vũ thái độ thận trọng và công bằng với Ngọc Phan, Ví dụ trong bài “Nói các danh nhân thời Nguyễn(5). chuyện văn với Tạp chí Văn học”, Lê 70 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020 Thọ Xuân đã thẳng thắn chỉ ra nhiều ngoại”, “dị tật gia truyền”, do chỗ soạn sai sót nghiêm trọng khi bình giải về giả viết “không phải vì lịch sử nƣớc bài thơ Vịnh Quan đế của Nguyễn nhà cũng không phải vì Lê Tả quân, Đình Chiểu của một tác giả không mà vì muốn suy tôn Ngô Tổng thống” thông hiểu ngôn ngữ Nam Bộ và điển (Lê Thọ Xuân, 1968a: 46); hay chuyện tích, sử sách cổ. Ông đã phải kêu lên: Đặng Thúc Liêng suy luận cho rằng “Trời ôi! Cụ Đồ nghe đến lời chú thích Nguyễn Đình Chiểu chính là Duy Minh nầy ở dƣới mồ cũng rán ngóc lên mà Thị (Lê Thọ Xuân, 1968a: 56). cãi: „Thƣa quý ngài, cuốn kinh bát Dù theo cách nào, các đánh giá, nhận loạn của tôi với cuốn của ngài nó khác xét của Lê Thọ Xuân vẫn luôn dựa nhau xa miệt mù. Tôi muốn nói Quan vào những tài liệu, bằng chứng, luận Võ thƣờng suốt đêm cầm cuốn Kinh điểm vững chắc, rõ ràng. Vì vậy Xuân Thu mà đọc, tay không thấy mỏi. những gì ông nói và viết ra đều có sức Tôi nói Quan Võ còn học, chớ không thuyết phục và tính khả tín cao đối với phải Quan Võ „làm thầy‟. Ông Mao ngƣời đọc. Tôn Cƣơng cũng có nói: „Quan Công 5. KẾT LUẬN mƣời phần học vấn, mƣời phần kiến Với hơn 40 năm miệt mài, bằng một thức là nhờ học Kinh Xuân Thu kỹ phƣơng pháp khoa học, một tinh thần lắm” (Lê Thọ Xuân, 1932: 25). Kết say mê, một thái độ cầu thị không thúc bài viết, Lê Thọ Xuân bày tỏ thái ngừng học hỏi, nỗ lực tìm tòi không độ bức xúc về thái độ sơ suất trong mệt mỏi gắn bó với lịch sử Nam Bộ, khâu biên tập, kiểm duyệt bài vở của Lê Thọ Xuân đã cho ra đời hàng chục tác giả lẫn chủ bút Tạp chí Văn học: bài khảo cứu tâm huyết, công phu “Tôi không ngờ, thật tôi không ngờ không những có giá trị ở đƣơng thời đâu những tay „cừ‟ thơ nhƣ ông Cử mà ngày nay đọc lại chúng ta vẫn thấy Tuyết Huy, ông tác giả quyển Quốc ý nghĩa trên nhiều mặt. Lê Thọ Xuân văn trích diễm lại để cho Văn học tạp không có những công trình đồ sộ, các chí „bƣớng‟ đến dƣờng ấy. Tốt hơn là bài khảo cứu của ông chỉ tập trung các ngài cứ chép đủ tám câu, để mặc vào một sự kiện, nhân vật cụ thể độc giả hiểu sao thì hiểu, kẻo: ngƣời nhƣng sâu sắc và toàn diện trong xƣa đau lòng, ngƣời nay điên đầu” (Lê phạm vi của nó. Đọc các nghiên cứu Thọ Xuân, 1932: 25). của Lê Thọ Xuân, chúng ta cũng thấy Cũng không ít khi Lê Thọ Xuân đánh ông cố gắng đƣa sử học đến gần đại giá ngƣời khác bằng ngôn ngữ hài chúng, bằng cách sắp xếp, bằng ngôn hƣớc hóm hỉnh. Ví dụ bài Đôi chuyện ngữ có tính văn chƣơng, dẫn dắt các vui vui trong việc học sử địa nước nhà vấn đề, câu chuyện, nhân vật, sự kiện viết về chuyện tác giả sách Cuộc đời sao cho thật dễ hiểu, thật ấn tƣợng, oanh liệt của Lê Văn Duyệt có nhiều không rơi vào khô khan nhàm chán, chi tiết kỳ lạ đáng buồn cƣời nhƣ “Hoa nhƣng vẫn đảm bảo tính khách quan, LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN 71 sự thật lịch sử. Những vấn đề Lê Thọ Với những đóng góp đáng kể của Lê Xuân đã giải quyết, đã tìm hỏi, đã đặt Thọ Xuân cần thiết có sự tổng kết, ra liên quan đến đất và ngƣời Nam Bộ đánh giá những cống hiến của ông đối hiện vẫn đang đƣợc nhiều ngƣời đi với sử học Nam Bộ nói riêng và sử sau kế thừa, tiếp nối, nhất là ở cách học Việt Nam nói chung. Bài viết này tiếp cận, giải mã lịch sử kết hợp với của chúng tôi góp phần gợi mở những địa lý học, địa danh học trong nghiên nghiên cứu tiếp theo về Lê Thọ Xuân cứu lịch sử Nam Bộ. trong nghiên cứu lịch sử Nam Bộ. CHÚ THÍCH (1) Về tiểu sử và đóng góp của Lê Thọ Xuân đối với văn học, báo chí, xin xem bài Đóng góp của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu văn học và hoạt động báo chí trước năm 1954 của Lƣu Hồng Sơn (Tạp chí Khoa học Xã hội, số 3/2016). (2) Quyển Phan-Thanh-Gian, 1796-1867, et sa famille d’après quelques documents annamites (Phan Thanh Giản, 1796-1867, và gia đình ông qua một số tài liệu An Nam) viết bằng tiếng Pháp, soạn chung với Pierre Daudin, là những tƣ liệu và gia phả quý giá của Phan Thanh Giản và dòng họ Phan mà ông có công sao chép và gìn giữ, in trong Tập san Hội Nghiên cứu Đông Dương, bộ mới, tập XVII, số 2, do nhà in Imprimerie de l‟Union của ông Nguyễn Văn Của (Sài Gòn) ấn hành năm 1941, tổng cộng 153 trang. Quyển Tiểu sử Long Vân hầu Trương Tấn Bửu là một tập sách, 31 trang in khổ nhỏ, nguyên đã in lần thứ nhất trong tập kỷ yếu của Hội Khuyến học Nam Kỳ năm 1942, in lần thứ hai năm 1943 trong quyển Nam Kỳ danh nhân do Đào Văn Hội chủ biên, sau đƣợc tái bản vào năm 1949, cuối cùng đƣợc tách ra, bổ sung và cho in riêng thành một tập (nhà in An Ninh, Sài Gòn) năm 1959. (3) Nói về việc khó khăn trong việc tiếp cận với bộ Đại Nam thực lục, Lê Thọ Xuân cho biết: “Hồi trƣớc, có lẽ ở nƣớc ta có hai chỗ có trọn bộ Thực lục lớn lao nầy: Trƣờng Bác cổ Viễn Đông ở Hà Nội và Quốc sử quán ở Huế. Nghe nói muốn kê cứu tài liệu trong bộ sách nầy ở Huế thì cả một vấn đề: phải làm đơn xin phép Cụ lớn Học bộ Thƣợng thơ, phải ghi rõ là muốn xem đoạn nào, kỷ nào; đƣợc phép thì đem trình các quan lớn ở Quốc sử quán. Vì là sách công việc của tiên tổ nhà vua, phải kính cẩn nghiêm túc, nên bộ sách cao quý nầy đƣợc để trong tủ riêng có niêm phong đàng hoàng. Viên quan ở Quốc sử quán mở tủ lấy những quyển nào có ghi trong giấy phép và cho ngƣời đƣợc phép đọc tại chỗ”. Ông cũng cho biết thông tin sở hữu bộ sử lớn này: “Về sau nhờ anh Đào Duy Anh „thƣơng thuyết‟, tôi có đƣợc trọn bộ mới tinh, và trọn bộ nầy đựng đầy một rƣơng xe. Trọn bộ đã bị thiêu hủy lúc quân đội Pháp tái chiếm Bến Tre năm 1946. Hiện nay, Viện Khảo cổ và Thƣ viện Quốc gia đều có Đại Nam thực lục nầy nhƣng không đầy đủ” (Lê Thọ Xuân, 1968a: 53). (4) Hai câu thơ tả về cái chết bi hùng của Võ Tánh này thuộc bài thơ vô đề của Trịnh Hoài Đức trong Cấn Trai thi tập. Nghĩa là: Trên lầu bát giác lửa và tâm cùng đỏ, Sau nghìn năm danh tiếng của ông tranh sáng với mặt trời. (5) Dù chuyên tâm vào nghiên cứu các nhân vật lịch sử thời Nguyễn, nhƣng đối với anh em nhà Tây Sơn, Lê Thọ Xuân vẫn thể hiện lòng ngƣỡng mộ, không phê phán phỉ báng. Thái độ này của ông thể hiện rõ trong đoạn giới thiệu về Gia Định tam hùng: “Trong hàng trăm 72 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 10 (266) 2020 ngàn đại tƣớng của Nguyễn Ánh có biết bao bực kỳ tài nhƣ Lê Văn Duyệt, dũng cảm nhƣ Nguyễn Huỳnh Đức, văn võ kiêm bị nhƣ Nguyễn Văn Thành, nhƣng cầm binh hay, đánh giặc giỏi, bọn hậu sanh nhƣ chúng ta cũng có thể biết chắc là chỉ có Đỗ Thanh Nhân, Châu Văn Tiếp và Võ Tánh. Biết chắc vậy là vì ta thấy hoặc đƣợc núp bóng cờ hoặc nhờ nƣơng oai võ của vị bách chiến bách thắng Nguyễn Huệ, trỏ roi ra hai mƣơi vạn binh Tàu không đất chôn thây, trở thuyền vào hai chục ngàn binh Xiêm chẳng còn manh giáp, quân Tây Sơn dũng mãnh dƣờng nào mà hãy còn kiêng sợ họ Đỗ, họ Châu, họ Võ và dùng bốn chữ „Gia Định tam hùng‟ để gọi họ. „Gia Định tam hùng‟ là ba ngƣời hùng dũng của đất Đồng Nai hay ta cứ gọi nôm là „ba con cọp gấm‟ của đạo binh Bến Nghé” (Lê Thọ Xuân, 2019a: 41). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. An Cƣ. 1966. “Hơn một giờ với ông Lê Thọ Xuân”. Đồng Nai văn tập, số 7. 2. Bằng Giang. 1992. Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ (1865 - 1930). TPHCM: Nxb. TPHCM. 3. Lê Thọ Xuân. 1932. “Nói chuyện văn với Tạp chí Văn học”. Đồng Nai tạp chí, số 14. 4. Lê Thọ Xuân. 1940. “Hƣởng ứng việc lập đoàn nghiên cứu Việt sử”. Báo Nước Nam, số 71. 5. Lê Thọ Xuân. 1941a. “Đôi chuyện về Phan Thanh Giản”. Tạp chí Tri Tân, số 4. 6. Lê Thọ Xuân. 1941b. “Miễu thờ Mai Công Hƣơng với một chữ lầm của cụ Phan Thanh Giản”. Tạp chí Tri Tân, số 26. 7. Lê Thọ Xuân. 1943a. “Bảo Định hà”. Đại Việt tập chí, số 9. 8. Lê Thọ Xuân. 1943b. “Gia Định tam hùng: Châu Văn Tiếp”. Đại Việt tập chí, số 14. 9. Lê Thọ Xuân. 1943c. “Gia Định tam hùng: Đỗ Thanh Nhân”. Đại Việt tập chí, số 11. 10. Lê Thọ Xuân. 1943d. “Gia Định tam hùng: Võ Tánh”. Đại Việt tập chí, số 17. 11. Lê Thọ Xuân. 1943e. “Gia Định tam hùng: Võ Tánh”. Đại Việt tập chí, số 18. 12. Lê Thọ Xuân. 1943f. “Long Xuyên, Đông Xuyên, Cà Mau”. Đại Việt tập chí, số 19. 13. Lê Thọ Xuân. 1944. “Lại một bài thơ của Đồ Chiểu”. Tạp chí Tri Tân, số 142. 14. Lê Thọ Xuân. 1959. Tiểu sử Long Vân hầu Trương Tấn Bửu. Sài Gòn: An Ninh xuất bản. 15. Lê Thọ Xuân. 1966. “Vài giai thoại có dính líu tới cụ lãnh binh Trƣơng Định”. Tạp chí Sử Địa, số 3. 16. Lê Thọ Xuân. 1967a. “Vài cảm tƣởng sau khi đọc sách Đại Nam nhất thống chí: Lục tỉnh Nam Việt”. Đồng Nai văn tập, số 12. 17. Lê Thọ Xuân. 1967b. “Đôi chuyện vui trong việc học sử địa nƣớc nhà”. Đồng Nai văn tập, số 13. 18. Lê Thọ Xuân. 1968a. “Đôi chuyện vui trong việc học sử địa nƣớc nhà”. Đồng Nai văn tập, số 15. 19. Lê Thọ Xuân. 1968b. “Xin cung hiến một ít tài liệu về cụ Nguyễn Trung Trực”. Tạp chí Sử Địa, số 12. 20. Lê Thọ Xuân. 1969. “Sau ngót 150 năm thử giải điểm thắc mắc của An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức về sử địa nƣớc nhà”. Sử Địa, số 14-15. LƢU HỒNG SƠN - MAI THỊ MỸ VỊ – ĐÓNG GÓP CỦA LÊ THỌ XUÂN 73 21. Lê Thọ Xuân. 2019a. “Gia Định tam hùng. In lại trong Nam Kỳ khảo lược, tập 1: Đại Việt tập chí (Trần Thành Trung sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu). Huế: Nxb. Thuận Hóa. 22. Lê Thọ Xuân. 2019b. Tiểu sử cụ Nguyễn Đình Chiểu. In lại trong Nam Kỳ khảo lược, tập 2: Nam Kỳ tuần báo (Trần Thành Trung sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu). Huế: Nxb. Thuận Hóa. 23. Lƣu Hồng Sơn. 2016. “Đóng góp của Lê Thọ Xuân trong nghiên cứu văn học và hoạt động báo chí trƣớc năm 1954”. Tạp chí Khoa học Xã hội, số 3. 24. Nguyễn Thế Anh. 1974. Nhập môn phương pháp Sử học (tài liệu học tập về các kỹ thuật của sự nghiên cứu sử dành cho sinh viên Ban Sử học, Trƣờng Đại học Văn khoa Sài Gòn). Sài Gòn. 25. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1959. Đại Nam nhất thống chí – Lục tỉnh Nam Việt, tập Thƣợng (ngƣời dịch: Tu Trai Nguyễn Tạo; Thái Văn Kiểm giới thiệu). Sài Gòn: Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn. 26. Thọ Xuân Lê Văn Phúc. 1942. “Bản sách dẫn về Đại Nam liệt truyện”. Tạp chí Tri Tân, số 57. 27. Vũ Ngọc Phan. 1936. “Về Sử học, muốn gần sự thật cần phải theo một phƣơng pháp”. Báo Sông Hương, số 2.
File đính kèm:
- dong_gop_cua_le_tho_xuan_trong_nghien_cuu_lich_su_nam_bo_tri.pdf