Đóng góp của Chương Dụng vào nghiên cứu lịch cổ Việt Nam
Rất ít người để tâm nghiên cứu lịch cổ Việt Nam. Gần đây, Tiến sĩ Yukio
Ohashi (Nhật Bản) có gửi cho chúng tôi bài báo “Việt lịch sóc nhuận khảo” [1] của
Chương Dụng, chúng ta mới biết được Chương Dụng là người đầu tiên nghiên cứu
lịch cổ Việt Nam. Người thứ hai nghiên cứu lịch cổ Việt Nam là Học giả Hoàng
Xuân Hãn.
Các cuốn lịch cổ mà ta biết tên cũng không nhiều, và gần đây nhiều cuốn bị
thất lạc. Bài báo trên nghiên cứu cuốn Bách trúng kinh ký hiệu A2517 có lịch Việt
Nam từ năm 1759 đến 1886 ở Viện Viễn Đông Bác cổ, mà nay đã thất lạc. Học giả
Hoàng Xuân Hãn có nghiên cứu một cuốn Bách trúng kinh khác, có lịch Việt Nam
từ năm 1624 đến năm 1799 để viết cuốn Lịch và lịch Việt Nam [2]. Chúng tôi ngờ
rằng đó là bản Bách trúng kinh ở Viện Viễn Đông Bác cổ có ký kiệu A2872 mà
nay cũng đã thất lạc. Cuốn Lịch Việt Nam 1901-2010 (LVN) [3] có dẫn cuốn lịch
cổ Hoàng triều Minh Mệnh Khâm định vạn niên thư có lịch Việt Nam từ năm 1544
đến 1861. Chúng tôi có hỏi ông Nguyễn Mậu Tùng, tác giả cuốn lịch trên về cuốn
lịch cổ đó; ông nói, ông cũng không còn biết nó ở đâu nữa, tức là chỉ sau hai, ba
chục năm cuốn lịch cổ đó đã thất lạc. May mà chúng tôi còn được đọc cuốn Khâm
định vạn niên thư [4] có lịch Việt Nam từ năm 1544 đến 1903, nó được in lại có bổ
sung sau 12 năm từ cuốn lịch cổ đó.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đóng góp của Chương Dụng vào nghiên cứu lịch cổ Việt Nam
làm việc này, chúng tôi lập Bảng 1 về lịch Việt Nam và Trung Quốc ở giai đoạn này. Bảng 1: Tình trạng lịch Trung Quốc và Việt Nam giai đoạn 1840 đến 1883. Năm Ngày sóc (theo lịch dương) Tháng Trung Quốc Việt Nam Dương Can chi âm Chính thức Đạo Chương A2517 LDNK VNT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 1841 Tân Sửu Chạp 11-1 12-1 12-1 11-1 11-1 11-1 1848 Mậu Thân Chạp 26-12 25-12 25-12 26-12 26-12 26-12 1856 Bính Thìn Một 28-11 27-11 27-11 28-11 28-11 27-11 1866 Bính Dần Tư 14-5 15-5 15-5 14-5 14-5 15-5 1869 Kỷ Tị Tư 12-5 11-5 11-5 12-5 12-5 11-5 Ghi chú: + Cột 4: Lịch “Chính thức” của Trung Quốc, chúng tôi lấy từ 4 cuốn lịch của Hoàng Bá Lộc [8], Trần Viên [9], Tiết Trọng Tam và Âu Dương Di [10], và cuốn Vạn niên lịch (Tân bản) [11], chúng đều giống nhau. + Cột 5: “Đạo” là Đạo Quang vạn niên thư [12] là lịch được dư soạn của vua Đạo Quang. Cuốn lịch này chúng tôi đọc trên mạng. + Cột 6: “Chương” là lịch do Chương Dụng lấy từ “Thanh vạn niên thư” theo cách gọi của ông [1]. + Cột 7: “A2517” là lịch Việt Nam do Chương Dụng lấy từ Bách trúng kinh A2517 [1]. + Cột 8: “LDNK” là lịch lấy từ Lịch đạt niên ký bách trúng kinh [6]. + “VNT” là lịch lấy từ Khâm định vạn niên thư [4]. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020 123 Về tư liệu lịch Trung Quốc: Các cuốn lịch của họ Hoàng, họ Tiết và họ Âu ghi lịch Trung Quốc cho hàng ngàn năm, và cuốn Vạn niên lịch (tân bản) được biên soạn sau này có lịch các năm ta cần dùng, chúng đều giống nhau và là lịch chính thức được dùng đương thời ở Trung Quốc. Dường như ở Trung Quốc thời nhà Thanh không có sách nào có tên gọi cụ thể là “Thanh vạn niên thư”, vì mỗi hoàng đế khi lên ngôi, gọi năm sau theo niên hiệu của mình, đều cho biên soạn lại Vạn niên thư gắn với niên hiệu đó và khởi từ đấy đến 200 năm sau, cứ lấy niên hiệu đó đặt tên cho cuốn Vạn niên thư của mình. Cho nên có nhiều bản Vạn niên thư: Gia Khánh vạn niên thư (1796-1995), Đạo Quang vạn niên thư (1821-2020), Hàm Phong vạn niên thư (1851-2050). Các Vạn niên thư này được “dự soạn” rất nhanh chóng nên độ chính xác không được cao; để sử dụng thật sự, thì hàng năm đều có “cập nhật” bằng cách tính lại lịch năm tới với độ chính xác cao hơn để cuối năm nhà vua ban phát thành lịch cho năm sau. Lịch “cập nhật” đó mới là lịch được dùng chính thức ở đương thời. Khi đó, nếu có khác với lịch dự soạn, thì thường chỉ lệch 1 ngày sóc (từ đó làm thay đổi tính thiếu đủ của 2 tháng liền nhau). Năm năm được đề cập đến ở Bảng 1 chỉ có ở các Vạn niên thư sớm như Đạo Quang vạn niên thư hay Gia Khánh vạn niên thư. Từ Hàm Phong vạn niên thư đã không có các năm 1841 và 1848 nữa. Như thế ta có thể đoán rằng Chương Dụng đã dùng một trong hai cuốn Vạn niên thư kể trên. Chúng tôi suy luận rằng, ngày đó ở Viện Viễn Đông Bác cổ có 1 trong 2 cuốn đó, Chương Dụng dùng nó và gọi luôn là Thanh vạn niên thư để chỉ rõ ông chép lịch nhà Thanh. Phải nói thêm rằng, sở dĩ ông nhanh chóng viết được bài này, vì ông được đào tạo rất cơ bản và toàn diện ở Đức, và vì ông đã từng nghiên cứu lịch pháp, đã viết hai bài về lịch, ông nắm vững phép làm lịch, nhưng ông chưa khảo cứu cụ thể lịch của nhà Thanh Trung Quốc, và khi ở Hà Nội ông không có đủ tư liệu để tham khảo, nên không biết rằng, lịch nhà Thanh có những dị bản. Và ở Viện Viễn Đông Bác cổ chắc cũng chỉ có một bản Vạn niên thư dự soạn đó của nhà Thanh. Tư liệu về lịch Việt Nam giai đoạn này, chúng ta có ở 2 cuốn lịch cổ. Trong đó, theo chúng tôi, Khâm định vạn niên thư [1544-1903] [4] được in năm 1850, lịch trước năm 1850 là lịch chính thức, lịch sau năm đó là lịch dự soạn, chỉ để tham khảo. Lịch trong Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] [6] là lịch được chép lại sau (có thể sau năm 1904 [5] (trang 98), nó tập hợp các lịch đã ban hành chính thức trước đó. Nhận định từ Bảng 1: 1) So sánh cột 5 và 6, ta thấy rõ ràng Thanh vạn niên thư mà Chương Dụng dùng giống với Đạo Quang vạn niên thư [12] – một cuốn lịch dự soạn, đó là sai 124 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020 lầm của ông. So sánh 2 cột trên với cột 4, ta thấy lịch dự soạn khác với lịch chính thức, bởi thế không dùng được. 2) Lịch các năm 1841, 1848 của Việt Nam ở cả 3 cuốn lịch (cột 7, 8, 9) đều giống nhau, đều là lịch chính thức. Ba năm sau (1856, 1866, 1869), lịch ở Khâm định vạn niên thư (cột 9) [4] khác với lịch ở Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (cột 8) [6], theo cách giải thích của chúng tôi, thì lịch ở cuốn sau (cột 8) là lịch chính thức [5]. Ta thấy, theo Chương Dụng: lịch trong Bách trúng kinh A2517 (cột 7) giống với lịch trong Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (cột 8); như vậy chứng tỏ: a) Lịch trong Bách trúng kinh A2517 là lịch chính thức của nước ta. b) Quyết định dùng lịch ở cuốn lịch Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (cột 8) [6] làm lịch chính thức của chúng tôi [5] là đúng. 3) Trong giai đoạn này, lịch chính thức của Việt Nam giống lịch chính thức của Trung Quốc, chúng đều được in đậm, nghiêng. Hai là, đóng góp của Chương Dụng cho việc khảo lịch Tây Sơn Như chúng tôi đã viết, cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] A1237 hiện còn là cuốn lịch duy nhất có lịch Tây Sơn, nhưng có nhiều lỗi, chúng tôi đã vận dụng lý thuyết mã sửa sai đính chính được gần 80 lỗi khác, nhưng còn lịch 2 năm Mậu Dần (1758) và Quý Sửu (1793) có lỗi quá lớn, không sửa được. Cụ thể, người chép đã sơ ý lấy nhầm lịch năm Đinh Sửu (1757) chép vào năm Mậu Dần, lịch năm Canh Tuất (1790) chép vào năm Quý Sửu. Như vậy, lịch Tây Sơn còn thiếu năm Quý Sửu. Nay có bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” [1], ta biết chắc được lịch năm đó của Tây Sơn giống lịch Trung Quốc [7]. Đó là đóng góp quan trọng nhất. Ngoài ra “Việt lịch sóc nhuận khảo” còn cho ta đầy đủ 13 năm lịch Tây Sơn rút ra từ Bách trúng kinh A2517. Như vậy đây là phiên bản thứ hai về lịch Tây Sơn, nó giống như phiên bản thứ nhất lấy từ Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [6] trong khi phiên bản thứ nhất này phải qua hiệu đính mới có. Nhân đây, chúng tôi lập Bảng 2, để ta có một cái nhìn tổng quan về lịch Tây Sơn. Từ Bảng 2, ta thấy: Lịch Tây Sơn (TS) trong 13 năm từ 1789 đến 1801 khác hẳn với lịch của chúa Nguyễn (CN) 5 lần, ở các trường hợp 1, 2, 3, 5, 6, trong đó có 3 lần khác nhau về nhuận là 1, 2, 5, tức là khác nhau lớn. Thậm chí ở trường hợp 2, khác nhau cả ngày Tết, tức là Tết năm đó, dân ở 2 vùng đất do hai thế lực cai quản ăn Tết không cùng ngày. Lịch Tây Sơn khác lịch Trung Quốc ít, chỉ có 3 lần, và đều là khác nhau nhỏ, tức là về ngày sóc (ngày mồng 1) ở các trường hợp 3, 4, 6. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020 125 Bảng 2: Lịch Tây Sơn (TS) so với lịch chúa Nguyễn (CN) và lịch Thanh (TQ). Thứ Năm Tháng Sóc ghi bằng ngày dương TS khác tự Dương Can chi âm TS CN TQ với về 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Hai N 23-3 Ba 23-3 21-4 23-3 1 1792 Nhâm Tý CN N Tư 21-4 21-5 21-4 Tư N 21-5 21-5 Một N 22-12 Chạp 22-12 21-1 22-12 2 1794 Giáp Dần Giêng 21-1 19-2 21-1 CN N&T Hai 19-2 21-3 19-2 Hai N 21-3 21-3 3 1795 Ất Mão Mười 12-11 11-11 11-11 CN&TQ S 4 1796 Bính Thìn Năm 6-6 6-6 5-6 TQ S Sáu N 24-7 24-7 5 1797 Đinh Tị Bảy 22-8 24-7 22-8 CN N Bảy N 22-8 6 1800 Canh Thân Tư N 23-5 24-5 24-5 CN&TQ S Ghi chú cho cột cuối N là nhuận. T là Tết. S là Sóc (ngày mồng 1). Lịch chúa Nguyễn trong thời gian đó khác hẳn lịch Thanh 3 lần ở số 1, 2, 5, tức là khác nhau về nhuận và 1 lần khác nhau nhỏ ở số 4, tức là khác nhau về sóc. Những điểm khác nhau của lịch Tây Sơn với lịch Thanh theo Chương Dụng khi ông đối chiếu lịch ở bản Bách trúng kinh A2517 với lịch Thanh (TQ) [1] cũng trùng với chúng tôi sau khi hiệu đính cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [5]. Ta biết, lịch Thanh theo phép Thời Hiến, lịch chúa Nguyễn theo phép Đại Thống, nên khác nhau nhiều. Lịch Tây Sơn gần với lịch Thanh, ta có thể đoán rằng, lịch Tây Sơn dùng phép Thời Hiến như lịch Thanh, nhưng tính toán kém chính xác hơn. Kết luận lại, chúng ta thấy Chương Dụng qua bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” [1] đã có những đóng góp đáng ghi nhận. Đầu tiên ta có thể nhận thức được, trong một thế giới đa văn hóa, người nước ngoài, như Chương Dụng xưa, hay Yukio Ohaschi nay rất chú ý đến hiện tượng: lịch Việt Nam từ xa xưa đã khác với lịch Trung Hoa. Thứ nữa, khi so sánh các kết quả nghiên cứu của Chương Dụng, ta thấy: Lịch ở Bách trúng kinh [1759-1886] A2517, hoàn toàn trùng lịch ở Lịch đại niên 126 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020 kỷ bách trúng kinh [1740-1883], A1237 mà chúng tôi đã khảo cứu [5]. Nó cho ta tin vào việc hiệu đính lịch cổ theo phương pháp mã sửa sai mà chúng tôi đã dùng. Tiếp theo, ta biết rằng, cuốn Bách trúng kinh [1758-1886] A2517 mà Chương Dụng khảo sát không còn nữa, nhưng bằng bài viết của ông, chúng ta có được nội dung của nó, nghĩa là bài viết đã giữ được hồn cốt của Bách trúng kinh A2517. Trong khi, cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] A1237 mà chúng tôi nghiên cứu có quá nhiều lỗi (khoảng 80 lỗi), phải dùng mã sửa sai để hiệu chỉnh lại, nhưng vẫn còn 2 lỗi không sửa được vào năm Mậu Dần (1758) và năm Quý Sửu (1793) [5]. Với khoảng thời gian có lịch của 2 cuốn gần tương đương nhau, bài “Việt lịch sóc nhuận khảo” cho phép ta nhận định việc hiệu đính cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh [1740-1883] A1237 mà chúng tôi đã làm [5] là đáng tin cậy và hoàn toàn có thể sử dụng được. Đóng góp cụ thể: Lịch các năm Tân Sửu (1841), Mậu Thân (1848), Bính Thìn (1856), Bính Dần (1866), Kỷ Tỵ (1869) ở Bảng 1 đã củng cố các nhận định về lịch nhà Nguyễn giai đoạn 1840 đến 1870 mà chúng tôi đã khảo sát trước đây nêu ở [5]. Lịch Tây Sơn ở năm Quý Sửu (1793) trong cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh là một trường hợp không hiệu chỉnh được, nghĩa là trước đây chúng ta còn thiếu lịch năm đó, thì nay nhờ “Việt lịch sóc nhuận khảo” cho ta biết được lịch năm đó có trong Bách trúng kinh A2517 giống lịch nhà Thanh và như thế là đã bổ sung lịch năm đó vào kết quả khảo cứu của chúng tôi trước đây [5], để chúng ta có đủ toàn bộ lịch Tây Sơn trong khoảng 1789 đến 1801. Bài báo này như một nén hương tưởng niệm TS. Yukio Ohashi, người đã đột ngột ra đi vào cuối tháng Mười năm 2019, sau khi kịp cung cấp cho chúng bài “Việt lịch sóc nhuận khảo”. Chúng tôi vô cùng thương tiếc và biết ơn Tiến sĩ, người rất yêu mến nền thiên văn, lịch pháp Việt Nam và đã ra sức quảng bá nó qua nhiều tác phẩm của mình. Ngày 10 tháng 6 năm 2020 L T L, P V L Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020 127 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chương Dụng (章用). (1940). “Việt lịch sóc nhuận khảo” 越曆朔閏考. Tây Nam Nghiên cứu 西南研究. 1, tr.25–35. 2. Hoàng Xuân Hãn. (1982). Lịch và lịch Việt Nam. Phụ trương Tập san Khoa học Xã hội. Paris. 3. Nguyễn Mậu Tùng. (1992). Lịch Việt Nam 1901-2010. Nxb Khoa học và Kỹ thuật. 4. Khâm định vạn niên thư 欽定萬年書 [1544-1903]. Ký kiệu R 2200 ở Thư viện Quốc gia Việt Nam. 5. Lê Thành Lân. (2010). Năm trăm năm lịch Việt Nam (1544-2043). Nxb Hà Nội. 6. Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh 曆代年紀百中經 [1740-1883]. Ký hiệu A.1237. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 7. Lê Thành Lân, Phạm Vũ Lộc. (2018). “Việt lịch sóc nhuận khảo” – Bài viết đầu tiên về lịch cổ Việt Nam. Trong Nghiên cứu Hán Nôm năm 2018. Nxb Thế giới, tr. 691-699. 8. Hoàng Bá Lộc. 黃伯祿. (1910). Trung Tây niên nguyệt thông khảo 中西年月通考 (Pièrre Hoang: Concordance des chronologies néoméniques Chinoise et Européenne). Thượng Hải. 9. Trần Viên. 陈垣. (1962). Nhị thập sử sóc nhuận biểu 二十史朔閏表. Trung Hoa thư cục xuất bản. 10. Tiết Trọng Tam, Âu Dương Di 薛仲三,歐陽頤. (1956). Lưỡng thiên niên Trung Tây lịch đối chiêu biểu 两千年中西曆對照表 (A sino-western calendar for two thousand years 1-2000 AD). Sinh hoạt, độc thư, tân trí tam liên thư điếm. 11. Vạn niên lịch biên tả tổ 万年历编写组. (1991). Vạn niên lịch (tân bản) (1841-2060). 万年历 新版 (1841-2060)). Khí tượng xuất bản xã 气象版社. 12. Đạo Quang vạn niên thư 道光万年书,中國哲學書電子 計劃 Trung Quốc triết học thư điện tử hóa kế hoạch, https://ctext.org/library.pl?if=gb&file=102624. TÓM TẮT Chương Dụng là người Trung Hoa được sinh ra ở Anh (1911) và được học thành tài tại Đức (1929-1936). Ông tới Hà Nội (1938) đọc sách ở Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, ông đã đọc cuốn lịch cổ của Việt Nam là Bách trúng kinh A2517 (nay đã thất lạc) và viết ngay bài “Việt lịch sóc nhuận khảo”. Năm 1939, Chương Dụng đi Hương Cảng (một nhượng địa thuộc Anh) chữa bệnh, rồi mất tại đó. Ông còn kịp gửi bài báo trên cho tạp chí Tây Nam Nghiên cứu để xuất bản vào số 01 năm 1940. Với bài báo trên, Chương Dụng – một người nước ngoài – trở thành người đầu tiên nghiên cứu lịch cổ Việt Nam và có đóng góp quan trọng. Bài báo trên đã bảo lưu được hồn cốt của cuốn Bách trúng kinh (1758-1886) A2517. Nó cho thấy cuốn Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (1740- 1883) A1237 sau hiệu đính giống Bách trúng kinh A2517 hoàn toàn, và như vậy phép hiệu đính của chúng tôi là đáng tin cậy. Bài viết của Chương Dụng đã giúp ta tìm được lịch nhà Tây Sơn của năm Quý Sửu (1793) mà trước đây chưa khẳng định được. Quan trọng là nhờ có Chương Dụng, chúng ta có được một phiên bản thứ hai về lịch Tây Sơn (từ 1789 đến 1801) cũng như phiên bản thứ hai về lịch chính thức của nhà Nguyễn giai đoạn 1851-1886 qua cuốn Bách trúng kinh A2517 để tăng thêm độ tin cậy của các kết luận khảo cứu. 128 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (160) . 2020 ABSTRACT ZHANG YONG’S CONTRIBUTION TO THE STUDY OF VIETNAMESE ANCIENT CALENDARS Zhang Yong is a Chinese who was born in England (1911) and studied in Germany (1929- 1936). He went to Hanoi (1938) and read the books in École française d’Extrême-Orient. He reads the ancient Vietnamese calendar Bách trúng kinh A2517 (which is now lost) and shortly after wrote an article Study on the first days of month and bissextile months of Vietnamese Calendar. In 1939 Zhang Yong went to Hong Kong (a ceded land to England) for illness treatment, then died there. He also promptly submitted the above article to the Journal Study Southwest to publish in the first issue of 1940. With the above article, Zhang Yong - a foreigner - became the first person to study the ancient Vietnamese calendar and made some important contributions. The above article has preserved the essence of the book Bách trúng kinh A2517. The article shows that the edited Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh (1740-1883) A1237 is completely similar to the Bách trúng kinh A2517 (1758-1886), and our editing method is reliable. The article of Zhang Yong helped us find the Tây Sơn calendar of the year of Gui Chou (1793), which was previously not confirmed. It is important that thanks to Zhang Yong’s article, we have a second version of the Tây Sơn Dynasty calendar (from 1789 to 1801) as well as a second version of the official Nguyễn Dynasty calendar from 1851-1886 via Bách trúng kinh A2517 to increase the reliability of research conclusions.
File đính kèm:
- dong_gop_cua_chuong_dung_vao_nghien_cuu_lich_co_viet_nam.pdf