Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc

Xưa nay, trong nền văn học Trung Quốc có không ít văn nhân đã để lại những tác phẩm bất hủ. Trình độ

của họ thật sự đã đạt đến bậc thầy trong việc đưa các con số vào những sáng tác của mình một cách hết

sức sáng tạo. Tìm hiểu văn hoá con số trong văn học Trung Quốc có ý nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo

ngôn ngữ thi ca mà các bậc văn nhân Trung Quốc là những tấm gương tiêu biểu.

Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc trang 1

Trang 1

Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc trang 2

Trang 2

Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc trang 3

Trang 3

Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc trang 4

Trang 4

Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc trang 5

Trang 5

Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 5520
Bạn đang xem tài liệu "Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc

Đôi nét về văn hoá con số trong văn học Trung Quốc
56 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Dường như chỉ là vô tri vô giác, nhưng những con số “một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười...” luôn chất 
chứa thứ tình cảm đong đầy qua khối óc tài 
tình của những văn nhân qua mỗi giai đoạn 
lịch sử, mỗi thời kì của văn học Trung Quốc, 
đóng góp cho kho tàng văn học Trung Quốc 
những tác phẩm đặc sắc, giàu tính nghệ thuật.
Dù xuất hiện trong thơ ca hay trong các câu thành 
ngữ miêu tả hình tượng nhân vật hoặc trong các 
câu đối, câu đố, thì cách thức của việc sử dụng 
những con số vô cùng đặc sắc đã thể hiện được 
tính sáng tạo trong sáng tác nghệ thuật của các 
tác giả. 
Văn hoá con số trong thơ ca
Con số được áp dụng trong thơ ca, không chỉ làm 
cho thơ ca càng thêm sinh động mà còn làm cho 
ĐÔI NÉT VỀ
VĂN HOÁ CON SỐ
TRONG VĂN HỌC TRUNG QUỐC
ĐỖ VĂN HIẾN
Học viện Khoa học Quân sự
TÓM TẮT
Xưa nay, trong nền văn học Trung Quốc có không ít văn nhân đã để lại những tác phẩm bất hủ. Trình độ 
của họ thật sự đã đạt đến bậc thầy trong việc đưa các con số vào những sáng tác của mình một cách hết 
sức sáng tạo. Tìm hiểu văn hoá con số trong văn học Trung Quốc có ý nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo 
ngôn ngữ thi ca mà các bậc văn nhân Trung Quốc là những tấm gương tiêu biểu.
Từ khóa: con số, nghệ thuật, văn hoá, thơ ca
nó thêm giàu tính nghệ thuật. Những ví dụ dưới 
đây là minh chứng rõ ràng nhất:
Ví dụ 1: 
一去二三里,烟村四五家,
Nhất khứ nhị tam lí, yên thôn tứ ngũ gia,
小桥六七座,八九十枝花。
Tiểu kiều lục thất tọa, bát cửu thập chi hoa.
Dịch nghĩa: 
Cất bước đôi ba dặm, khói bếp dăm ba nhà,
Cầu kiều dăm bẩy chiếc, xen giữa những nhành hoa.
Đây là bức tranh làng quê yên bình trong bài thơ 
“Sơn thôn vịnh hoài”, được tác giả Thiệu Khang1 
57KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
khắc họa một cách sinh động và tài tình bằng 
việc sử dụng 10 từ thể hiện con số trong khổ thơ 
chỉ có vỏn vẹn 20 từ.
Ví dụ 2:
一名大乔二小乔,
Nhất danh đại kiều nhị tiểu kiều,
三寸金莲四寸腰,
Tam thốn kim liên tứ thốn yêu,
买得五六七色粉,
Mãi đắc ngũ lục thất sắc phấn,
打扮八九十分娇。
Đả bán bát cửu thập phân kiều.
Dịch nghĩa:
Một cô Kiều chị hai Kiều em,
Ba tấc gót sen bốn tấc eo,
Mua được năm sáu bảy sắc phấn, 
Trang điểm tám chín mười phần xinh.
Bài thơ trên ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt. 
Tương truyền, đời Thanh có thi nhân tên là Lý 
Điệu Nguyên, một lần ông cùng sáu anh tài tử du 
ngoạn Hồ Tây ở Hàng Châu2, vì mọi người muốn 
thử xem thực tài của thi nhân họ Lý giỏi giang 
đến đâu, đã đưa ra yêu cầu Lý phải làm một bài 
thơ sử dụng dãy số từ 1 đến 10 theo thứ tự từ nhỏ 
đến lớn trong thời gian ngắn nhất. Tức thì Lý Điệu 
Nguyên đã sáng tác ra bài thơ trên.
Ví dụ 3: 
Các anh tài tử nghe xong mặc dù tấm tắc khen, 
nhưng vẫn yêu cầu thi nhân họ Lý phải làm tiếp 
bài thơ khác, trong đó phải sử dụng dãy số từ 1 
đến 10 theo thứ tự ngược lại. 
Lý hỏi lại: “Hôm nay là ngày bao nhiêu?”
Có người bạn đáp: “Ngày mười chín”. Không chút 
do dự, Lý lại thơ rằng:
十九月亮八分圆,
Thập cửu nguyệt lượng bát phân viên,
七个才子六个癫,
Thất cá tài tử lục cá điên,
五更四时鸡三唱,
Ngũ canh tứ thời kê tam sướng,
怀抱二月一枕眠。
Hoài bão nhị nguyệt nhất chẩm miên.
Dịch nghĩa:
Mặt trăng mười chín tám phần tròn,
Bảy anh tài tử sáu anh điên,
Ngũ canh bốn giờ (gà) ba lần gáy, 
Ôm trăng tháng hai ngủ một mình.
Chỉ qua bấy nhiêu thôi ta cũng thấy được nét tài 
hoa của người thi sĩ họ Lý, và cũng chỉ bằng bấy 
nhiêu nhưng tác giả đã sử dụng một cách tinh tế 
các con số để vẽ nên nét dịu dàng, xinh xắn của 
nhiều giai nhân chốn hậu cung, để rồi lại với bằng 
ấy con số tài tử họ Lý đã tả thực một cách sinh 
động phong cảnh xung quanh rất đỗi nên thơ lúc 
bấy giờ.
Ví dụ 4:
Đời Tây Hán có một văn quan nổi tiếng tên là Tư 
Mã Tương Như3, trước khi đỗ đạt làm quan,  ông 
chỉ là một tài tử nghèo. Trác Văn Quân vốn là con 
gái của một thương gia giàu có, cũng là người tài 
hoa, vì ngưỡng mộ tài năng của Tư Mã Tương Như 
mà Văn Quân đang đêm đã bỏ nhà để đi theo 
tiếng gọi của tình yêu. Nhưng sau khi đỗ đạt làm 
quan, Tương Như có ý muốn bỏ Văn Quân, nên 
đã viết một bức thư bảo viên sai dịch chuyển cho 
vợ mình và dặn vợ phải viết thư hồi âm ngay. Văn 
58 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Quân thấy trên giấy trắng chỉ viết có mười ba con 
số, đó là: “一,二,三,四,五,六,七,八,
九,十,百,千,万” , chỉ thiếu có chữ số “亿”. 
Ở đây, rõ ràng việc Tư Mã Tương Như bỏ chữ số “
亿” là có chủ ý. Trong tiếng Trung Quốc, chữ “亿” 
(ức) đồng nghĩa với chữ “意” (ý), không có chữ “
亿” (ức) có nghĩa là “无亿”(vô ức). Nhờ hiện tượng 
đồng âm, ở đây Tương Như muốn truyền tải 
thông điệp đến Văn Quân chính là “无意” (vô ý). 
Nàng Văn Quân lập tức hiểu ngay ra ý của chồng 
là muốn bỏ mình, ngay lúc đó, trong tâm trạng 
vừa giận hờn vừa tủi phận, nàng bèn viết ngay 
bức thư trả lời Tương Như rằng:
Ví dụ 5: 
一别之后,二地悬念。只说是三四月,又
谁知五六年。七弦琴无心弹,八行书不可
传,九连环从中折断,十里长亭望眼欲
穿。百思想,千系念,万般无奈把郎怨。
万言千语说不完,百无聊赖十倚栏。重九登高
看孤雁,八月中秋月不圆。七月半,烧香秉烛
问苍天。六月伏天,人人摇扇我心寒。五月石
榴如火,偏遇阵阵冷雨浇花端。四月枇杷未
黄,我欲对镜心意乱。匆匆匆,三月桃花随水
转。飘零零,二月风筝断了线。噫!郎呀郎,
巴不得下一世,你为女来我为郎!
Dịch nghĩa: 
  Một khúc biệt ly, hai trời thương nhớ. Những 
tưởng ba bốn tháng, ai dè năm sáu năm. Bảy cung 
đàn bỏ mặc, tám chồng sách chẳng tơ. Chín lần 
liền đứt đoạn, mười dặm lầu đài mỏi mắt ngóng 
mong. Trăm nỗi nhớ, ngàn niềm thương, vạn lần 
oán trách chàng không đặng.
Ngàn vạn lời kể sao cho xiết, trăm sự bất tín, mười 
sự bất tin. Trùng Cửu4 lên cao, chỉ thấy cánh nhạn 
cô đơn. Tháng tám Trung thu trăng như khuyết. 
Rằm tháng bảy thắp hương đốt nến vấn trời cao. 
Tháng sáu vào hạ, người ta quạt mát sao lòng 
thiếp giá băng. Tháng năm hoa lựu đỏ, gặp lúc 
cơn mưa tưới cánh hoa. Tháng tư tì bà chưa chín, 
gương soi trước mặt lòng rối rắm. Thấm thoắt, hoa 
đào tháng ba bay theo gió. Chới với, cánh diều 
tháng hai đứt mất dây. Chàng ơi chàng hỡi, những 
mong kiếp sau chàng phận gái thiếp phận trai.
Tâm trạng vừa giận vừa thương của người con gái 
được lột tả chỉ bằng 26 lần sử dụng những con số 
đếm từ số 1 đến số hàng vạn, khổ trước là từ số 1 
đến số hàng vạn, khổ sau là ngược lại từ số hàng 
vạn đến số 1.
 Tương Như cứ ngỡ bức thư tương đối khó hiểu 
của mình sẽ làm cho Văn Quân chùn bước, nào 
ngờ đâu thư hồi âm của Văn Quân đã khiến Tương 
Như cảm thấy hổ thẹn xen lẫn xúc động, liền sau 
đó cho người rước Văn Quân về Kinh với mình.
Văn hoá con số trong thành ngữ miêu tả hình 
tượng nhân vật
Người Trung Quốc rất ưa sử dụng các con số trong 
những câu thành ngữ để miêu tả cuộc sống, cảnh 
vật và con người trong xã hội. Nhờ đó, đã góp 
phần làm sinh động thêm nội dung đề tài được 
phản ánh.
Ví dụ 6: Miêu tả hình tượng kẻ tham ô
一心二用,两面三刀,三头六臂,四面楚歌,
五斗折腰,六亲不认,七上八下,八面玲珑,
九霄难逃,十恶不赦。
Dịch âm:
Nhất tâm nhị dụng, lưỡng diện tam đao, tam 
đầu lục tí, tứ diện sở ca, ngũ đẩu chiết yêu, lục 
thân bất nhận, thất lượng bát hạ, bát diện 
linh lung, cửu tiêu nan đào, thập ác bất xá.
Dịch nghĩa: 
Không làm việc vì dân, chỉ màng đến lợi ích cá 
nhân; trước mặt bề trên thì nói một đằng, sau 
lưng kẻ dưới lại nói một nẻo; tìm mọi cách có 
lợi cho mình, như có ba đầu sáu tay; cuối cùng 
sẽ tự rơi vào thế khó; chỉ vì lợi ích nhỏ nhoi mà 
khúm núm thấp hèn, đánh mất tình người, ngày 
đêm thấp thỏm lo âu; tuy ba vành bảy vẽ, khéo 
ăn khéo nói, nhưng rốt cuộc cũng khó mà tránh 
khỏi lên chín tầng mây, bởi tội ác tày trời không 
dễ tha thứ.
Ví dụ 7: Miêu tả người tôi tớ có tính cách xấu xa
一副奴才相,两手往下垂,三角眼闪亮,四楞
59KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
脸堆媚,五官不端正,六神透阴气,七寸长脖
子,八两小脑袋,九根黄胡子,十分不像人。
Dịch âm: 
Nhất phó nô tài tướng, lưỡng thủ vãng hạ thuỳ, 
tam giác nhãn thiểm lượng, tứ lăng liễm đôi mi, 
ngũ quan bất đoan chính, lục thần thấu âm khí, 
thất thốn trường bột tử, bát lạng tiểu não đại, cửu 
căn hoàng hồ tử, thập phân bất tượng nhân.
Dịch nghĩa:
Một khuôn mặt đầy tớ, hai tay buông thõng 
xuống, mắt tam giác chớp chớp, mặt vuông hay 
nịnh bợ, ngũ quan thiếu đoan chính, lục thần đầy 
âm khí, cổ dài đến bảy tấc, đầu nhỏ được tám 
lạng, chín cọng râu nhuốm vàng, rõ mười mươi 
khác người.
Ví dụ trên cũng đã sử dụng những cụm từ gồm 
các số từ 1 đến 10 để miêu tả một vài kẻ tôi tớ của 
xã hội cũ với tính cách đê tiện, thấp hèn.
Ví dụ 8: Miêu tả kẻ ham mê bài bạc, có máu đỏ đen
一心赢钱,两眼通红,三餐无味,四肢乏力,
五业荒废,六亲不认,七窍生烟,八方借债,
九(久)陷泥潭,十(实)成灾难。
Dịch âm:
Một tâm doanh tiền, lưỡng nhãn thông hồng, 
tam xan vô vị, tứ chi phạp lực, ngũ nghiệp 
hoang phế, lục thân bất nhận, thất khiếu sinh 
yên, bát phương tá trái, cửu hãm nê đàm, thập 
thành tai nạn.
Dịch nghĩa:
Một lòng chỉ ham thắng bạc, hai mắt đỏ ngầu, ba 
bữa không ngon miệng, tứ chi rã rời, nghề nghiệp 
bỏ bê, sao nhãng tình thân, vô cớ giận dữ, vay 
mượn tám phương, lấn sâu xuống bùn lầy, ắt sẽ 
thành tai họa.
Ví dụ này đã sử dụng cụm từ hoặc thành ngữ có 
các chữ số từ 1 đến 10, miêu tả đời sống cũng 
như trạng thái tâm lí của kẻ đam mê đỏ đen, 
nhấn mạnh quy luật càng chơi càng thua nhiều, 
càng thua lại càng muốn gỡ của những con bạc, 
để rồi chuốc lấy cảnh tan cửa nát nhà, tan đàn 
sẻ nghé.
Văn hoá con số trong câu đối, câu đố
Con số không chỉ được dùng trong thơ ca, mà 
nó còn được sử dụng trong các câu đối, câu đố. 
Có thể thấy con số trong câu đối, câu đố là một 
chất liệu đặc biệt để tạo nên nét riêng của thể 
loại này.
Ví dụ 9:
天数五,地数五,五十五年,五世同堂,共仰
一人有庆;
春八十,秋八十,八旬八月,八方万国,咸喊
万寿无疆。
Dịch âm:
Thiên số ngũ, địa số ngũ,   ngũ thập ngũ niên, 
ngũ thế đồng đường, cộng ngưỡng nhất nhân 
hữu khánh.
Xuân bát thập, thu bát thập, bát tuần bát nguyệt, 
bát phương vạn quốc, hàm hô vạn thọ vô cương.
Dịch nghĩa:
Đếm từ đầu là năm, đếm từ cuối cũng là năm, giữ 
ngôi năm mươi lăm năm, ngũ đại đồng đường, 
cùng mừng sinh nhật Hoàng đế.
Đếm từ xuân là tám mươi, đếm từ thu cũng là tám 
mươi, sinh vào tháng tám,  mừng tuổi tám mươi, 
tứ diện bát phương, hoan hô vạn thọ vô cương.
Ở vế trước, tác giả đã năm lần sử dụng con số 5, 
ý muốn chúc mừng Hoàng đế Càn Long lên ngôi 
được 55 năm, lại có được 5 thế hệ trong nhà. Phía 
vế sau cũng năm lần sử dụng con số 8, ý muốn 
chúc mừng ngày sinh của Hoàng đế vào tháng 
tám ở độ tuổi tám mươi. Với cách dùng tài hoa 
như vậy, những con số nêu trên đã góp phần làm 
cho khả năng chơi chữ của tác giả đạt đến sự điêu 
luyện, đồng thời cũng thỏa mãn được đam mê 
nghệ thuật câu đối của Hoàng đế Càn Long.
60 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Ví dụ 10:
Đời nhà Thanh, có một người họ Trịnh tên Bản 
Kiều5, làm đến chức quan tri huyện. Ông thường 
xuyên vi hành để tìm hiểu cuộc sống của người 
dân lao động. Có lần Trịnh Bản Kiều đi ngang qua 
nhà một người nông dân, thấy trước cửa có dán 
câu đối, vế đối trước là:二、三、四、五 (nhị, 
tam, tứ, ngũ); vế đối sau là: 六、七、八、九 (lục, 
thất, bát, cửu); vế ngang lại để trống. Đám tuỳ 
tùng không ai hiểu ra ý gì, duy chỉ có quan tri 
huyện là hiểu ra. Té ra, dựa vào nghĩa của cả hai 
vế thì vế hàng ngang phải là: “缺衣(一)少食
(十)” {khuyết y (nhất) thiếu thực (thập)}”. Như 
ta đã biết, trong tiếng Hán, “衣” (quần áo) đồng 
âm với “一” (nhất), “食” (lương thực) đồng âm với “
十” (thập), nghĩa là dân đói khổ, thiếu ăn lại thêm 
thiếu cả mặc, ăn không thấy no, ngủ cũng không 
được yên.
Người nông dân chỉ cần dùng chưa đến mười con 
số đã bày tỏ được tình cảnh khốn khổ ở nơi mình 
đang sinh sống. Tác giả không những đã thể hiện 
được tài năng xuất chúng, mà còn không phạm 
vào tội khi quân với Hoàng đế. Thấy thế quan tri 
huyện Trịnh Bản Kiều đã tặng cho người nông 
dân quần áo, lương thực, thực phẩm và tiền bạc, 
hòng giúp đỡ cho dân khắc phục những khó 
khăn trước mắt.
Ví dụ 11:
Trong sử sách Trung Quốc, Hoàng đế Càn Long 
là một người thích thơ ca, câu đối và rất giỏi chơi 
chữ. Người thường hay cùng Kỷ Hiểu Lam6 trao 
đổi thơ văn, câu đối. Một lần Hoàng đế Càn Long 
làm một bài thơ đố Kỷ Hiểu Lam như sau: 
下珠帘焚香去卜卦,
问苍天,侬的人儿落在谁家?
恨王郎全无一点直心话,
欲罢不能罢,吾把口来压。
论文字交情不羞,染成皂难讲一句清白话。
分明一双好鸳鸯,却被刀割下。
抛的努力尽手又乏,
细思量口与心俱是假。
Kỷ Hiểu Lam nghe đoạn, liền ngẫm nghĩ rồi 
trả lời đúng đáp án là mười con số: 一、二、
三、四、五、六、七、八、九、十 (nhất, 
nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập).
Nhìn bề ngoài, đây là bài thơ miêu tả người mẹ 
của Minh Châu cách cách ở Hàng Châu, với nỗi 
nhớ mong trông ngóng của người phụ nữ bị 
ruồng bỏ. Nhưng thực ra đây lại là một câu đố, bởi 
ở mỗi một câu của nó đều ẩn chứa một con số. 
Hoá ra, “下”去了“卜” là một;“天”不见“人”là 
hai; “王”无“一” là ba;“罢”不要“能” 
là bốn;“吾”去了“口” là năm;“交”不
要“叉”(差)là sáu;“皂”去了“白” là 
bảy;“分”去了“刀” là tám;“抛”去了“
力”与“才” là chín;“思”去了“口”和“
心” là mười.
Có thể thấy, người Trung Quốc vốn tao nhã hào 
hoa từ lâu đã nổi tiếng là hay chơi chữ và giỏi chơi 
chữ. Thông qua việc sử dụng tài tình các con số 
khiến chúng như có phép màu, là chất xúc tác tạo 
nên thứ cảm xúc thăng hoa cho người đọc. Dù 
thoạt đầu rất đỗi đơn giản, nhưng nếu sử dụng 
những con số một cách thích hợp thì sẽ làm cho 
văn chương và thơ ca trở nên uyển chuyển, muôn 
màu sắc và đầy sức sống./.
Ghi chú:
1. Thiệu Khang - Nhà thơ, nhà toán học, nhà đạo 
học đời Bắc Tống - Trung Quốc. 
2. Thành phố nằm trong đồng bằng châu thổ 
sông Trường Giang của Trung Quốc, và là thủ phủ 
tỉnh Chiết Giang.
3. Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh (179 TCN – 
117 TCN), người ở Thành Đô. Ông là người đa tài, 
văn hay, đàn giỏi.
4. Theo phong tục của người Trung Quốc bắt 
nguồn từ đời Hán, ngày 9 tháng 9 âm lịch hàng 
năm là ngày Tết Trùng Dương (hay còn gọi là Tết 
Trùng Cửu).
61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 2 - 7/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
5. Trịnh Bản Kiều người vùng Giang Tô, sống vào 
đời nhà Thanh. Hội hoạ, thi thơ và thư pháp của 
Trịnh Bản Kiều được người đời kính nể, xưng tụng 
là “Tam tuyệt”.
6. Kỷ Quân, tự là Hiểu Lam (26/7/1724 – 
14/2/1805), danh sĩ nổi tiếng đời nhà Thanh, tác 
giả cuốn “Duyệt Vi Tảo Đường Bút Ký”, là một 
trong những tác phẩm nổi tiếng đương thời.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Khang, “Con số văn hoá Trung Hoa 
qua cách sử dụng các con số”, tạp chí Ngôn ngữ & 
Đời sống, 01/2001, tr24-26.
2. 区慕洁“百万智测2-3岁亲子启智游戏”, 上
海第二军医大学出版社, 2007年。
INTERESTING USES OF FIGURES IN CHINESE 
LITERATURE
Abstract: Figures are part of literature. But a 
question of how to put figures into a literature 
work without damaging the nature of literature 
is always hard to answer. In their works many 
ancient Chinese writers show uniquely creative 
ways of using figures. The article discuses uses 
figures in Chinese literature works as a cultural 
feature of the Chinese literature. It finally provides 
examples of creatively using figures to underline 
the significance of the cultural feature of figures 
in Chinese literature works.
Keywords: figure, art, culture, poetry
Ngày nhận: 23/5/2016
Ngày phản biện: 14/7/2016
Ngày duyệt đăng: 21/7/2016

File đính kèm:

  • pdfdoi_net_ve_van_hoa_con_so_trong_van_hoc_trung_quoc.pdf