Định hướng đào tạo nhân lực ngành Kế toán trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
Tóm tắt
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) – một bước tiến quan trọng trong công nghệ số của nhân
loại đang tạo ra nhiều cơ hội cho nghề kế toán, bên cạnh đó cũng đặt ra những thách thức không nhỏ
đối với công tác đào tạo kế toán. Việc đào tạo nhân lực ngành Kế toán có tính khoa học, phù hợp với sự
phát triển của công nghệ số là yêu cầu tất yếu không những đối với Việt Nam mà cả các nước trên thế
giới. Trong phạm vi bài báo, tác giả đề cập đến những tác động của cuộc CMCN 4.0; yêu cầu đối với
nhân lực ngành Kế toán; đánh giá thực trạng đào tạo nhân lực ngành Kế toán tại Việt Nam hiện nay, từ
đó có những định hướng trong đào tạo kế toán tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Định hướng đào tạo nhân lực ngành Kế toán trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0
đã đưa IAS/IFRS vào giảng dạy ở bậc cử nhân, nhưng do khung pháp lý kế toán Việt Nam vẫn chú trọng nhiều vào các quy định cụ thể, nên cơ chế chính sách còn chưa hoàn thiện, do vậy một số kỹ thuật đặc biệt của IFRS còn chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện. Đồng thời, do trở ngại về ngôn ngữ, trong khi IAS/IFRS được biên soạn bằng tiếng Anh, nên khả năng đọc, hiểu bằng ngôn ngữ này của sinh viên và giảng viên Việt Nam còn hết sức hạn chế, [2]. Hình 5. Số lượng chuẩn mực IAS/IFRS được giảng dạy Thứ hai, về giảng viên giảng dạy: Giáo viên được coi là một trong những nguồn lực bắt buộc để đào tạo nhân lực phù hợp với yêu cầu thời đại, giáo viên có tầm ảnh hưởng quan trọng đến khả năng, mức độ tiếp thu kiến thức kế toán cũng như quyết định nghiên cứu sâu hơn của sinh viên. Trong quá trình quốc tế hóa đào tạo kế toán, quốc tế hóa trình độ giáo viên cần nhận được sự ủng hộ của chính sách quốc gia, đây là một trong những thách thức lớn trong việc phát triển đào tạo kế toán. Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nâng cao nhưng phương pháp giảng dạy về cơ bản vẫn mang tính thuyết giảng làm người học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang nặng lý thuyết, tính ứng dụng thấp. Thời gian đứng lớp của giảng viên tại các trường còn quá lớn, làm hạn chế thời gian dành cho nghiên cứu khoa học và thâm nhập thực tế. Đặc biệt, trình 72 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 độ ngoại ngữ của hầu hết các giảng viên còn hạn chế, chưa đủ khả năng để giảng dạy bằng tiếng Anh. Do đó, sinh viên không nâng cao được trình độ tiếng Anh chuyên ngành, khả năng nghiên cứu, tham khảo tài liệu quốc tế cũng hạn chế. Về phương pháp giảng dạy, hầu hết vẫn theo phương pháp truyền thống, hạn chế khả năng tư duy sáng tạo của sinh viên. Theo nghiên cứu của TS. Trần Văn Tùng – Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, hiện có bốn phương pháp dạy học tích cực đang được sử dụng để giảng dạy, trong đó có môn Kế toán tài chính: dạy kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, thảo luận theo nhóm giải quyết vấn đề, dạy học theo dự án và dạy học mô phỏng. Bảng 1. Kết quả thống kê của giảng viên về phương pháp dạy học đối với môn Kế toán tài chính TT Các phương pháp dạy học tích cực Mức độ thực hiện Thường xuyên Không thường xuyên Không có 1 Dạy kết hợp giữa lý thuyết và thực hành 14/63 (22,22%) 43/63 (68,25%) 6/63 (9,53%) 2 Thảo luận theo nhóm giải quyết vấn đề 18/63 (28,57%) 42/63 (66,67%) 3/63 (4,76%) 3 Dạy học theo dự án 4/63 (6,35%) 12/63 (19,05%) 47/63 (74,60%) 4 Dạy học mô phỏng 7/63 (11,11%) 44/63 (69,84%) 12/63 (19,05%) Nguồn: tapchitaichinh.vn Từ bảng trên cho thấy, tỷ lệ không thường xuyên vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy của giảng viên vẫn chiếm phần lớn. Đặc biệt, tỷ lệ không giảng dạy theo phương pháp dạy học theo dự án còn cao, tới 74,6%. Như vậy, phương pháp dạy học môn Kế toán tài chính tại các trường cao đẳng, đại học hiện nay chủ yếu vẫn là phương pháp thuyết trình truyền thống, các nhóm phương pháp dạy học tích cực ít được sử dụng, chỉ đạt mức độ trung bình. Bên cạnh đó, việc ứng dụng các phương tiện, thiết bị hiện đại như công nghệ điện toán đám mây, kê khai trực tuyến, phần mềm online trong giảng dạy còn hạn chế [4]. Thứ ba, về người học: Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học quá thấp, chủ yếu tập trung vào các trường xét tuyển, tính chủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưa cao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong trào, học cho qua, “học theo hội chứng bằng cấp”, do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức để đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ. Chỉ số chất lượng đào tạo so với các nước trong khu vực đứng hạng 10 trên 12 nước. Kết quả khảo sát của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trên cơ sở lấy ý kiến của kế toán tại các doanh nghiệp cho thấy, sinh viên ngành Kế toán khi ra trường còn thiếu rất nhiều kỹ năng. Cụ thể, các kỹ năng lập kế hoạch, khả năng giải quyết công việc, làm việc nhóm có tỷ lệ không hài lòng và ít hài lòng cao. Đặc biệt, kỹ năng làm việc nhóm có kết quả không hài lòng là 24,1% và ít hài lòng là 58,7%. Bên cạnh đó, kỹ năng ngoại ngữ và tin học còn hạn chế, nhất là kỹ năng ngoại ngữ. Đây là những “lỗ hổng” cần phải được lấp đầy trong thời gian tới trong điều kiện bùng nổ của CMCN 4.0 [5]. Bảng 2. Kết quả khảo sát về kỹ năng mềm của cử nhân kế toán (%) [5] TT Chỉ tiêu khảo sát Hoàn toàn không hài lòng Ít hài lòng Tạm được Hài lòng Rất hài lòng 1 Kỹ năng giao tiếp và ứng xử 3,1 41,4 39,3 16,1 0 2 Kỹ năng lập kế hoạch công việc 23,2 53,5 23,3 0 0 3 Kỹ năng phát hiện, giải quyết vấn đề 11,3 72,3 16,4 0 0 4 Kỹ năng làm việc nhóm 24,1 58,7 17,2 0 0 Bảng 3. Kết quả khảo sát về kỹ năng ngoại ngữ và tin học của cử nhân kế toán (%) [5] TT Chỉ tiêu khảo sát Hoàn toàn không hài lòng Ít hài lòng Tạm được Hài lòng Rất hài lòng 1 Kỹ năng ngoại ngữ 36,0 49,3 12,4 2,3 0 2 Kỹ năng sử dụng tin học văn phòng 1,2 32,1 43,5 18,8 5,4 3 Kỹ năng sử dụng phần mềm chuyên dùng 18,5 35,7 42,1 3,7 0 NGÀNH KINH TẾ Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 73 Thứ tư, công cụ hỗ trợ đào tạo: Các công cụ hỗ trợ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy. Kế toán là một lĩnh vực khoa học xã hội có tính ứng dụng cao, trong bối cảnh CMCN 4.0 gắn liền với các công nghệ hiện đại như hiện nay thì yêu cầu cung cấp công cụ học tập và cập nhật thường xuyên, liên tục các công cụ đó là bắt buộc. Trong những năm gần đây, theo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước đã ban hành và thực hiện 26 chuẩn mực kế toán và các văn bản hướng dẫn, sửa đổi cũng thường xuyên được bổ sung cho việc thực hiện công tác kế toán. Vì vậy, việc cập nhật và đầu tư nâng cấp các công cụ hỗ trợ đào tạo là tất yếu. Tại nhiều trường học hiện nay đã được trang bị hệ thống máy tính kết nối internet, cài đặt các phần mềm kế toán được cập nhật theo chế độ kế toán hiện hành [3]. Tuy vậy, bên cạnh đó, còn một số không ít các trường vẫn sử dụng những phương tiện đã quá yếu kém, lạc hậu và thiếu đồng bộ, nhưng vẫn chậm được đầu tư nâng cấp. Các khóa học kế toán vẫn chọn những vật liệu không còn phù hợp, cập nhật chậm. Một trong những đòi hỏi bắt buộc của công tác đào tạo kế toán là phải có hệ thống máy tính hoặc chứng từ đầy đủ để sinh viên có cơ hội tiếp cận với thực tế, song nhiều đơn vị vẫn không có máy hoặc không đủ máy cho mỗi sinh viên. Thậm chí việc sử dụng các phần mềm online để nhập liệu cũng khó có được một đường truyền internet ổn định trong quá trình học. Một công cụ rất cần thiết nữa là các sổ sách, chứng từ cần thiết để sinh viên có cơ hội diện kiến hoặc luyện tập nhiều khi còn hạn chế hoặc đã lạc hậu. Mặc dù Bộ Tài chính đã ban hành các chuẩn mực kế toán nhưng hầu hết các giáo trình về kế toán đều được soạn theo các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính nên hạn chế phần nào khả năng suy luận và phát triển kiến thức của sinh viên. Để khắc phục những tồn tại trên cần thiết phải có những định hướng trong đào tạo sinh viên ngành Kế toán có chất lượng đáp ứng với sự phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh CMCN 4.0. 5. ĐỊNH HƯỚNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH KẾ TOÁN Trước những thách thức đặt ra đối với nhân lực ngành Kế toán trong bối cảnh CMCN 4.0, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học theo tư duy CMCN 4.0 nhằm phát triển các kỹ năng mới phục vụ cho công việc trong môi trường CMCN 4.0 tại các doanh nghiệp, cơ quan. Về chương trình đào tạo Để theo kịp sự phát triển của thời đại, các chương trình giáo dục nói chung và đào tạo nhân lực ngành Kế toán nói riêng phải thường xuyên cập nhật, đổi mới. Điều đó có nghĩa là phải đào tạo để có được nguồn nhân lực phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội trong tương lai. Do đó, cần phải rà soát, chỉnh sửa lại chương trình đào tạo của tất cả các ngành nói chung và ngành Kế toán nói riêng. Bổ sung các môn học mới theo khuyến cáo của IFAC, như: công nghệ kỹ thuật số (bao gồm điện toán đám mây và sử dụng dữ liệu lớn), toàn cầu hóa (dịch vụ thuê ngoài kế toán) và các qui định mới (qui định về thuế, hình thức báo cáo mới, qui định về báo cáo tích hợp,). Các học phần chuyên ngành cần phải điều chỉnh theo hướng tích hợp với công nghệ thông tin. Chẳng hạn, môn Luật kế toán bổ sung nội dung về chứng từ điện tử, chữ ký số, môn Kế toán thuế bổ sung thực hành nội dung đăng ký, kê khai trên phần mềm hỗ trợ kê khai thuế, môn Tin học chuyên ngành bổ sung công nghệ blockchain, Bên cạnh đó, nội dung chương trình đào tạo cần điều chỉnh dần theo hướng giảng dạy IFRS kết hợp với các tình huống cụ thể theo yêu cầu của Việt Nam [2]. Việc làm này sẽ giúp người học vừa tiếp cận được IFRS vừa am hiểu các quy trình kế toán ở Việt Nam, từ đó tăng khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tế của sinh viên, đáp ứng các yêu cầu của thị trường lao động, sinh viên ra trường làm việc được ngay mà không cần phải đào tạo lại. Tập trung vào đào tạo các kỹ năng cần thiết cho vị trí nhân viên kế toán quản trị. Chú trọng các môn công cụ như ngoại ngữ, tin học và kỹ năng mềm. Định kỳ khảo sát doanh nghiệp để nắm bắt nhu cầu làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình sát với thực tiễn. Về nghiên cứu khoa học Trong bối cảnh CMCN 4.0, nghiên cứu khoa học là một trong những yêu cầu bắt buộc. Do đó, đã đến lúc các cơ sở giáo dục đại học phải đưa ra các hình thức nghiên cứu mới, trong đó phải tập trung quan tâm đến các vấn đề như tốc độ, kết quả, quá trình đánh giá. Ngoài ra, hệ thống dữ liệu quy mô lớn hơn và đa đạng nguồn hơn để phục vụ hoạt động nghiên cứu được tốt hơn [1]. Để làm được như vậy, đã đến lúc mỗi một cơ sở giáo dục đại học phải trang bị cho mình một trung tâm nghiên cứu để giúp cho sinh viên và cả giảng viên tiếp cận được với sự phát triển của khoa học công nghệ trong tương lai. Đối với ngành Kế toán, việc nghiên cứu không chỉ giới hạn trong lĩnh vực 74 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(63).2018 chuyên môn mà còn có thể các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác. Từ đó mới hình thành được các kỹ năng con người, kỹ năng kinh doanh và kỹ năng lãnh đạo cho các nhà kế toán tương lai. Đối với công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên, các trường đại học cần phải trang bị các hệ thống thông tin nghiên cứu khoa học cũng như các phần mềm quản lý dự án, quản lý cơ sở đào tạo, bộ phận hỗ trợ tài chính. Đầu tư cơ sở vật chất, công cụ học tập Các trường đại học có thể đầu tư công nghệ giúp sinh viên có thể thực hành để có kinh nghiệm thực tế trong bối cảnh CMCN 4.0, có được các kiến thức về những tác động xã hội tiềm ẩn của hệ thống tự động hóa và hệ thống thông minh và cách thức giải quyết các vấn đề này. Dạy học 4.0 gồm nhiều hình thức học tập mới, thời gian và địa điểm học tập không bị ràng buộc, có sự thay đổi phù hợp với đối tượng học, cung cấp nhiều kỹ năng phù hợp hơn. Để làm được điều đó, bắt buộc phải chuyển đổi hình thức giảng dạy truyền thống sang các hình thức giảng dạy năng động, liên kết với thực tế theo mô hình giáo dục mới như phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo, phòng thí nghiệm, thư viện ảo, dưới sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh. Đồng thời, phương pháp giáo dục cũng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong việc tổ chức giảng dạy qua Internet. Qua đó, hình thức giáo dục sẽ linh hoạt về thời gian, không gian, phù hợp với điều kiện và nhu cầu cá nhân phát triển E-learning hay sử dụng ứng dụng công nghệ điện toán đám mây cho phép người dạy có thể cung cấp tài liệu học tập cho người học và thu thập lại các kết quả của quá trình dạy học từ phía người học một cách liên tục và linh hoạt. Đối với ngành Kế toán, cần tăng cường mô hình phòng thực hành kế toán ảo. Đây là mô hình đã và đang được các trường có chuyên ngành Kế toán áp dụng tại Việt Nam [2]. Tuy nhiên, hiện nay, cơ sở vật chất cho phòng thực hành chủ yếu vẫn là sổ sách kế toán thủ công. Do đó, cần trang bị lại cơ sở vật chất theo hướng công nghệ cho phòng thực hành kế toán ảo này. Bên cạnh đó, việc sử dụng các mạng xã hội đang được yêu thích hiện nay để cung cấp tài liệu, thực hiện hướng dẫn thực hành cho người học. Về hợp tác đào tạo Các trường đại học có thể phối hợp với các công ty, cơ sở đào tạo để tổ chức những khóa học phù hợp với những nội dung như mã hóa, quản lý thông tin ở những nền tảng chia sẻ được như điện toán đám mây và đánh giá những nhu cầu về kế toán theo thời gian thực của các đối tượng khác nhau từ nhà quản trị doanh nghiệp, các cổ đông, người lao động, các cơ quan phi chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước và các bên có lợi ích liên quan khác [4]. Ngoài ra, các trường đại học nên thường xuyên thảo luận với các công ty dịch vụ kế toán, các chuyên gia/giảng viên về các lĩnh vực mới để điều chỉnh chương trình đào tạo của mình cho phù hợp. Đồng thời, các trường đại học hoặc là phải đầu tư vào việc đào tạo các giảng viên hiện có hoặc tuyển dụng chuyên gia để phối hợp và giảng dạy các chương trình mới. 6. KẾT LUẬN Đứng trước những thuận lợi và khó khăn đặt ra trong bối cảnh CMCN 4.0, nhân lực ngành Kế toán cần đảm bảo được yêu cầu cần thiết để có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Để đạt được những yêu cầu đó, công tác đào tạo đóng vai trò chủ yếu. Những định hướng mà bài báo đã đưa ra dựa trên việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng của CMCN 4.0; những yêu cầu đặt ra đối với người làm kế toán và thực trạng đào tạo kế toán hiện nay tại Việt Nam. Kết quả của bài báo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo từ đó nâng cao chất lượng nhân lực ngành Kế toán trong bối cảnh CMCN 4.0. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Tấn Tài (2017). Giáo dục đại học phải làm gì trước cuộc cách mạng 4.0. dai-hoc-phai-lam-gi-truoc-thach-thuc-cua-cach- mang-cong-nghiep-40-post178343.gd [2]. PGS.TS Hà Xuân Thạch (2017). Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng IFRS tại Việt Nam. [3]. John Vũ (2016). Đào tạo trực tuyến MOOCs là cuộc “cách mạng vĩ đại” trong hệ thống giáo dục, Techmaster Team. https://techmaster.vn/ posts/33951/dao-tao-truc-tuyenmoocs-la-cuoc- cach-mang-vi-dai-trong-he-thong-giao-duc [4]. Tapchitaichinh.vn [5]. Đại học Quy Nhơn (2017). Kỷ yếu hội thảo khoa học Kế toán kiểm toán. [6]. Tetyana Slyozko, Nataliya Ahorodnya (2017). The Fourth Industrial Revolution: The Present and Future of Accounting and the Accounting Profession.
File đính kèm:
- dinh_huong_dao_tao_nhan_luc_nganh_ke_toan_trong_boi_canh_cuo.pdf