Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật Hôn nhân và Gia đình (HN & GĐ) năm 2014 dành 7 điều (từ Điều 94 đến Điều 100) quy định về
vấn đề mang thai hộ rất rõ ràng. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có khoảng 60 – 80
triệu cặp vợ chồng hiếm muộn trên thế giới. Mang thai hộ là một trong những giải pháp mà nhiều
người lựa chọn. Hiện nay, ở Việt Nam tình trạng vô sinh, vợ chồng hiếm muộn đang ngày càng
nhiều và diễn biến phức tạp nên nhu cầu mang thai hộ cũng theo chiều hướng không ngừng tăng
theo. Trước đây, mang thai hộ bị pháp luật cấm nhưng đến thời điểm hiện tại pháp luật đã không
cấm mà còn được quy định cụ thể trong luật Hôn nhân và Gia đình (HN & GĐ) năm 2014.
Trong bài viết này, tác giả phân tích về: Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, từ đó nêu lên
một số bất cập trong việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và kiến nghị hoàn thiện về vấn đề
mang thai hộ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014
ó được coi là đủ điều kiện nhờ mang thai hộ. Nếu xét về mặt nhân văn thì việc họ nhờ mang thai hộ là một điều chính đáng. Vấn đề thứ ba, nếu vợ chồng sinh con đều là nữ hoặc đều là nam. Nhưng gia đình vẫn muốn sinh thêm nhưng do một số lý do như người vợ lớn tuổi; người vợ hoặc chồng vô sinh; vợ hoặc chồng mắc bệnh lý không thể dùng phương pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ngoài ra, theo văn hóa Phương Đông song song với đó là việc mất cân bằng giới tính tại Việt Nam (tỷ lệ tự nhiên về giới tính khi sinh của con người, theo Tổ chức Y tế Thế giới, là 105 nam/100 nữ, nếu số bé trai quá ngưỡng 105, sẽ có các hệ lụy xã hội về lâu dài) thì có được coi là đủ điều kiện nhờ mang thai hộ[4]. Ngoài ra, theo Điểm d – Khoản 1 – Điều 14 Nghị định 10/2015/NĐ – CP Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì ‚Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận‛. Đang có mâu thuẫn giữa hai thuật ngữ đó là ‚chưa có con chung‛ và ‚đang không có con chung‛ sự mâu thuẫn này làm mất đi tính thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Kiến nghị hoàn thiện điều kiện thứ hai, pháp luật nên nêu ra các trường hợp thế nào là con chung, các trường hợp ngoại lệ qua đó thể hiện sự nhân đạo của pháp luật đối với các trường hợp mà vợ chồng có con mắc vào các bệnh hiểm nghèo. Hoặc các trường hợp vấn đề nằm ở vợ hoặc chồng thì cần quy định cụ thể các trường hợp này có được nhờ người mang thai hộ hay không. Ngoài ra, cần thống nhất các thuật ngữ để hệ thống văn bản pháp luật có sự thống nhất không gây ra khó hiểu, mâu thuẫn khi đọc. Điều kiện thứ ba, theo Điểm c – Khoản 2 – Điều 95 luật HN & GĐ năm 2014 thì ‚Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý‛. Nếu xét về điều kiện này thì sẽ xảy ra hai vấn đề bất cập: 1459 Vấn đề đầu tiên, cơ sở tư vấn sẽ quá tải và chỉ có các tổ chức này tư vấn thì mới được chấp nhận sử dụng phương pháp mang thai hộ. Việc chờ đợi các cơ sở tư vấn sẽ kéo dài thời gian và làm gánh nặng cho các cơ sở. Vấn đề thứ hai, các cơ sở tư vấn chuyên môn về nghiệp vụ chưa cao, kiến thức chuyên môn còn hạn chế chưa thực sự là sâu rộng, đạo đức nghề nghiệp còn kém, còn đặt mục đích thương mại cho cơ sở tư vấn lên hàng đầu, đặc biệt hơn hết đó là bằng cấp chuyên môn của từng tư vấn viên còn chưa đầy đủ, có người có người không hoặc thiếu các giấy tờ nhưng vẫn được thông qua để thực hiện hoạt động tư vấn. Kiến nghị hoàn thiện điều kiện thứ ba, pháp luật nên quy định rõ các trường hợp cần cơ sở y tế tư vấn, giảm sự quá tải của các cơ sở. Rút ngắn thời gian cũng như tạo tâm lý thoải mái cho các cặp vợ chồng khi sử dụng phương pháp. Nên mở rộng phạm vi người có thể mang thai hộ. Ưu điểm của việc mở rộng phạm vi là giúp ích rất nhiều cho vợ chồng khi họ không có anh em ruột thịt, họ có thể nhờ bạn thân hoặc những người họ cho là tin tưởng để giúp đỡ về vấn đề này. Nhược điểm của việc mở rộng phạm vi là người mang thai hộ sẽ không thành thật về số lần mình mang thai hộ vì không có một cơ sở dữ liệu nào lưu trữ người đó đã mang thai bao nhiêu lần song song với đó sẽ biến mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thành mang thai hộ vì mục đích thương mại vì xã hội ngày càng phát triển kéo theo những hệ lụy là khỏi thải, bia rượu, thức ăn bẩn đưa vào người càng ngày càng nhiều đó chính là những nguyên do một phần nào đó gây ra vô sinh ở nam và nữ. Cuối cùng, để hoạt động tư vấn có hiệu quả tránh các trường hợp tư vấn sai lệch và vì mục đích lợi nhuận, cần thiết phải chuyên nghiệp hóa hoạt động tư vấn thông qua việc nâng cao bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và cần thiết mỗi lĩnh vực tư vấn thì tư vấn viên cần có những chứng chỉ nghề nghiệp do các cơ quan chuyên môn đánh giá cung cấp. 3.2 Bất cập trong trong việc quy định điều kiện người được nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và kiến nghị hoàn thiện Điều kiện thứ nhất, theo Điểm a – Khoản 3 – Điều 95 luật HN & GĐ năm 2014 thì ‚Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ‛. Bất cập là người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng. Quy định này sẽ làm xảy ra rất nhiều trường hợp trái chiều. Tại Khoản 7 – Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì ‚Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ‛. Nếu bên vợ hoặc bên chồng không có anh em thân thích cùng hàng thì việc áp dụng theo Khoản 7 – Điều 2 là cả một vấn đề nan giải. Ngoài ra, Việt Nam mình là nước phương đông nên việc giữ thuần phong mỹ tục là điều chắc chắn phải giữ nên việc này sẽ làm cho các cặp vợ chồng cảm thấy e dè nhưng vì muốn có con cộng thêm việc ở Việt Nam vẫn tồn tại việc ‚đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn‛ nên việc lách luật là có thể xảy ra nên việc đẩy họ đến chỗ để vi phạm pháp luật vì không tìm được người thân thích cùng hàng là rất dễ. Ngoài ra, việc họ khó có con là một việc đa số không cặp vợ chồng nào muốn nhiều người biết. Nên việc mở rộng phạm vi người được mang thai hộ là rất cần thiết. 1460 Ví dụ: Một cặp vợ chồng tại Thành phố Hồ Chí Minh lấy nhau đã được 12 năm nhưng họ vẫn không có con. Họ đã nhờ người nhà mang thai nhưng không ai chịu vì nhiều lý do. Cặp vợ chồng này đã nhờ bạn thân thiết của mình nhiều năm và đồng ý giúp mang thai hộ[12]. Trường hợp này thể hiện sự bất lực của cặp vợ chồng muốn có con nhưng lại phải thực hiện đúng quy định của Pháp luật về điều kiện nhờ người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Cặp vợ chồng này chỉ còn cách là ra sức thuyết phục người thân, họ hàng trong dòng họ của hai bên vợ hoặc chồng để được trợ giúp về vấn đề này đồng thời để được pháp luật bảo vệ, tránh những rắc rối không đáng có xảy ra. Kiến nghị hoàn thiện điều kiện thứ nhất, Việt Nam là một nước phương đông nên việc giữ thuần phong mỹ tục là đương nhiên cộng thêm việc phải có con để nối dõi. Tuy nhiên, với xã hội phát triển bây giờ kéo theo rất nhiều hệ lụy. Nên việc có con cũng khó khăn hơn rất nhiều. Nhưng với ý nghĩ là phải giữ thuần phong mỹ tục nên có nhiều gia đình đã rất đau đầu về việc có con. Vì vậy, khi thấy một người mang thai hộ sẽ có rất nhiều lời ra tiếng vào, khi đó lại là anh em, họ hàng. Do vậy, cần phân tích và tuyên truyền nhiều về phương pháp này giúp người dân hiểu đúng, hiểu rõ được bản chất của mang thai hộ. Điều kiện thứ hai, theo Điểm b – Khoản 3 – Điều 95 luật HN & GĐ năm 2014 thì ‚Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần‛. Quy định chỉ được mang thai hộ một lần, người mang thai cho dù có giấy chứng minh nhưng chỉ là tờ cam kết của người đó đâu có xác thực hay nói lên được điều gì thông qua tờ giấy đó hoặc người mang thai hộ chuyển chỗ ở đến chỗ ở mới thì địa phương ở đó cũng đâu có biết là họ đã mang thai mấy lần vì đâu có hệ thống lưu trữ vấn đề này và trong luật cũng không quy định cụ thể. Các cơ quan chức năng sẽ khó kiểm soát vấn đề này. Ngoài những bất cập đã nêu đối với điều kiện đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần thì hiện nay có nhiều đối tượng lợi dụng lòng tin cũng như mong muốn có một đứa con của các cặp vợ chồng để biến việc mang thai hộ từ mục đích nhân đạo thành dịch vụ để kiếm tiền (hay còn gọi là mang thai hộ chui). Vào năm 2019, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã bùng nổ dịch vụ mang thai hộ trên mạng xã hội với tên gọi là ‚Hiến trứng và mang thai hộ‛ với lời quảng cáo cần người mang thai hộ với giá 280 triệu đồng các đối tượng đã đánh vào được tâm lý cần tiền và cần con của các chị em phụ nữ. Việc mang thai hộ chui gây ra rất nhiều rủi ro cho cả hai phía[11]. Kiến nghị hoàn thiện điều kiện thứ hai, cần đầu tư xây dựng hệ thống dữ liệu một cách hoàn thiện về người đã từng mang thai hộ, các điều kiện để mang thai hộ để người dân có thể tra cứu một cách nhanh nhất song song với đó là không cần phải lo lắng về người mang thai hộ. Vì làm như vậy sẽ dễ tra cứu dù người này có chuyển nơi cư trú mới giảm thiểu tối đa những trường hợp gian lận, mang thai để nhằm mục đích thu lợi cho bản thân. Điều kiện thứ ba, theo Điểm d – Khoản 3 – Điều 95 luật HN & GĐ năm 2014 thì ‚Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ muốn mang thai thì phải cần có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng‛. Trên thực tế trình độ dân trí của người dân còn có hạn nên nếu người chồng của người mang thai hộ không hiểu rõ mục đích nhân đạo cũng như bản chất của việc mang thai hộ thì rất dễ xảy ra bất 1461 đồng, mâu thuẫn hoặc gây cản trở trong quá trình mang thai làm ảnh hưởng đến người mang thai đặc biệt là thai nhi. Vấn đề này còn gây ra rất nhiều bất cập. Ngoài ra, có nhiều cặp vợ chồng chung sống với nhau nhưng không có hôn thú. Nếu xét về mặt pháp luật thì không có giấy hôn thú thì họ không phải là vợ chồng đồng nghĩa với việc người vợ không cần có sự đồng ý của người chồng nhưng làm như vậy có phù hợp với điều kiện này. Nếu anh chồng có phản ứng thì sẽ giải quyết như thế nào. Nếu hai vợ chồng đang trong quá trình ly thân hoặc trong quá trình giải quyết ly hôn nhưng người phụ nữ lại muốn mang thai hộ giúp người thân trong gia đình thì trường hợp này có cần sự đồng ý của người chồng. Ví dụ: Trường hợp của chị Hà Thị Dương năm nay 27 tuổi sinh sống tại Bắc Giang thì theo chị trình bày là hiện tại chị đã có một con gái 8 tuổi. Thực tế chị và chồng đã sống ly thân ngay từ khi con gái chị được 2 tuổi, nhưng vì lý do riêng nên không thể ly hôn. Hiện chồng chị đang thụ án 20 năm tù vì ma túy. Biết hoàn cảnh của em như vậy, mới đây vợ chồng chị gái hiếm muộn của chị Dương đã đặt vấn đề nhờ chị Dương mang thai hộ giúp vợ chồng chị gái. Chị rất muốn giúp chị gái vì thấy chị gái không có được một đứa con để chăm sóc, thương yêu nhưng lại sợ chồng chị không đồng ý[10]. Trường hợp của chị Hà Thị Dương muốn mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì bắt buộc phải có sự đồng ý của chồng thì mới đủ điều kiện pháp luật cho phép. Như vậy, dù chị có muốn hay không thì chị vẫn phải bắt buộc vào trại giam gặp chồng và hỏi ý kiến người chồng, thuyết phục chồng cho chị mang thai hộ. Nếu làm theo đúng như pháp luật đã đưa ra thì sẽ làm cho các bên khó xử, cũng như hy vọng có con của vợ chồng chị gái sẽ rất mong manh. Vì như đã nêu ở trên thì thực tế trình độ dân trí có hạn nên nếu người chồng của người mang thai hộ không hiểu rõ mục đích nhân đạo cũng như bản chất của việc mang thai hộ thì rất dễ xảy ra bất đồng, mâu thuẫn hoặc gây cản trở trong quá trình mang thai làm ảnh hưởng đến người mang thai đặc biệt là thai nhi. Cuối cùng là nếu người chồng đi làm xa 2-3 năm mới về một lần thì người vợ muốn mang thai hộ vẫn phải chờ người chồng về đồng ý thì mới được mang thai hộ hay sao. Trong điều kiện tên có ghi rất rõ là cần sự đồng ý bằng văn bản của người chồng vậy có cần mang ra cơ quan nhà nước để xác thực lại hay không vì vấn đề này sẽ ảnh hưởng rất lớn trong tương lai người vợ mang thai hộ. Kiến nghị hoàn thiện điều kiện thứ ba, cần quy định rõ ràng các trường hợp không cần sự đồng ý của người chồng mà người vợ vẫn có thể mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, việc quy định rõ như vậy tạo rất nhiều thuận lợi cho nhiều mặt. Thứ nhất, cho các cặp vợ chồng không có con có một đứa con đúng nghĩa; Thứ hai, tạo một lối suy nghĩ rộng mở cho người mang thai hộ không cần phải đắn đo suy nghĩ nhiều khi họ muốn làm một việc ý nghĩa cho người thân của mình. 4 KẾT LUẬN Việc mang thai hộ được quy định trong luật HN & GĐ năm 2014 là một quy định mà rất nhiều người mong chờ nhất là các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn. Quy định này nhận lại phản hồi rất là tích cực từ xã hội mở ra một trang mới tạo ra nhiều cơ hội cho các cặp vợ chồng mong muốn có con. Tuy nhiên, vì còn quá mới mẻ nên điều kiện mang thai hộ không tránh được những lỗ hỏng so với 1462 thực tiễn. Vì vậy, chúng ta hãy hy vọng trong thời gian tới pháp luật sẽ tiếp tục hoàn thiện cũng như các cơ quan chức năng sẽ đưa ra các biện pháp sát với thực tiễn nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bài viết: ‚Tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam đang ở mức cảnh báo‛, năm 2018, xem tại: https://dantri.com.vn/suc-khoe/ti-le-vo-sinh-o-viet-nam-dang-vao-muc-canh-bao- 20180405120937326.htm, truy cập ngày 20/06/2020. [2] Các phương pháp hỗ trợ sinh sản phổ biến hiện nay – Medlatec, năm 2019, xem tại: https://medlatec.vn/tin-tuc/cac-phuong-phap-ho-tro-sinh-san-pho-bien-hien-nay-s74- n12163, truy cập ngày 12/06/2020. [3] Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo – Luật NQH Việt Nam, năm 2019, xem tại: https://luatnqh.vn/dieu-kien-mang-thai-ho-vi-muc-dich-nhan-dao/, truy cập ngày 12/06/2020. [4] Đức Trân, Việt Nam đứng đầu Đông Nam Á về mất cân bằng giới tính, năm 2018, xem tại: tintuc440670, truy cập ngày 18/06/2020. [5] Mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam – tạp chí tòa án nhân dân (điện tử), năm 2018, xem tại: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mang-thai-ho-theo-quy-dinh-cua- phap-luat-viet-nam, truy cập ngày 15/06/2020. [6] Mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam – tạp chí tòa án nhân dân (điện tử), năm 2018, xem tại: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mang-thai-ho-theo-quy-dinh-cua- phap-luat-viet-nam, truy cập ngày 15/06/2020. [7] Mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam – tạp chí tòa án nhân dân (điện tử), năm 2018, xem tại: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/mang-thai-ho-theo-quy-dinh-cua- phap-luat-viet-nam’ truy cập ngày 15/06/2020. [8] Mang thai hộ: đầy tréo ngoe, khó xử, năm 2018, xem tại: https://vietnamnet.vn/vn/thoi- su/mang-thai-ho-day-treo-ngoe-kho-xu- 229625.html?fbclid=IwAR0yQmf7ol1VGkJz4XdOlmYicOlHBPV6_XMDyDwWwKPXeV55ECUDF5 JFIUc, truy cập ngày 20/06/2020. [9] Mang thai hộ từ mục đích nhân đạo thành dịch vụ kiếm tiền, năm 2018, xem tại: https://vtv.vn/chuyen-dong-24h/mang-thai-ho-tu-muc-dich-nhan-dao-tro-thanh-dich-vu- kiem-tien- 20190109145255791.htm?fbclid=IwAR3DRN0DCHKtNitfl6- UmgImvDjnVrgcWl21gz0T61SlZofj-_Wr2A_QT_c, truy cập ngày 18/06/2020. [10] Những điều cần biết về mang thai hộ, năm 2018, xem tại: https://hongngochospital.vn/nhung-dieu-can-biet-ve-mang-thai- ho/?fbclid=IwAR3xOMWrB5VzWkfwEN-u8hXrCWztmjf75VIy6Y7RlmCaayV1Y7tjNrjvytU-, truy cập ngày 20/06/2020. 1463 [11] Quỳnh Lưu, Mang thai hộ cần sự đồng ý cảu chồng, năm 2018, xem tại: https://baophapluat.vn/tu-van-365/mang-thai-ho-co-phai-can-su-dong-y-cua-chong- 431789.html, truy cập ngày 20/06/2020. [12] Tư vấn bởi Luật sư Nguyễn Thành Công đoàn Luật sư TP.HCM, Bạn thân cũng không được mang thai hộ, năm 2015, xem tại: https://vietnamnet.vn/vn/ban-doc/ba-n-than-cu-ng- khong-duo-c-mang-thai-ho-249049.html?fbclid=IwAR2Dc5JPdYlkgHQFHq1VlkXqtfCKvf- CD3ctpRvk_-VMeAHr7S0ZiHFckgY, truy cập ngày 20/06/2020.
File đính kèm:
- dieu_kien_mang_thai_ho_vi_muc_dich_nhan_dao_theo_quy_dinh_cu.pdf