Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965)

Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ được thành lập theo chủ trương của Đảng, nhằm đấu

tranh với việc chính quyền Ngô Đình Diệm (do Mỹ hậu thuẫn) tăng cường các chiến dịch khủng bố

phong trào cách mạng ở miền Nam sau khi Hiệp định Geneve được ký kết năm 1954. Các căn cứ này

phần lớn được xây dựng ở những khu vực vùng núi có địa hình hiểm trở, điển hình như: Nước Oa, Nước

Là, Sơn-Cẩm-Hà, miền Tây tỉnh Quảng Ngãi, Núi Bà, Vân Hòa. Kẻ địch (Quân đội Việt Nam Cộng hòa

và quân Mỹ) đã tổ chức nhiều chiến dịch quân sự lớn nhằm tiêu diệt các căn cứ. Quân dân các căn cứ

đã xây dựng thế trận, chiến đấu dũng cảm, làm thất bại nhiều cuộc tấn công lớn của địch, bảo vệ an

toàn các cơ quan đầu não kháng chiến. Trên thực tế, sự tồn tại và đứng vững của các căn cứ địa đã

góp phần quan trọng vào sự phát triển của phong trào cách mạng địa phương, đồng thời tạo cơ sở để

Đảng vạch ra đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam nhằm đánh bại chiến lược “Chiến tranh

đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965) trang 1

Trang 1

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965) trang 2

Trang 2

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965) trang 3

Trang 3

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965) trang 4

Trang 4

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965) trang 5

Trang 5

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965) trang 6

Trang 6

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965) trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 1480
Bạn đang xem tài liệu "Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965)

Đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (1961-1965)
m Sơn 8” tấn công vào căn cứ Sơn - Cẩm - 
địa phương và dân quân du kích, các tỉnh Quảng Hà, được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng 
Đà, Quảng Ngãi, Bình Định mỗi tỉnh có hai tiểu Nam, Huyện ủy Tiên Phước, các trung đội, tiểu 
đoàn tập trung, các huyện có một đến hai đại đội. đội của Tiểu đoàn 70 lực lượng vũ trang tỉnh trực 
lực lượng vũ trang Khu V lúc này đã có 37.000 tiếp xuống tận các xã, thôn để kèm cặp lực lượng 
quân chủ lực, 21.000 quân địa phương, 95.000 du du kích. Phong trào du kích chiến tranh được phát 
kích [9, tr. 325], lực lượng này trải rộng khắp các động rộng rãi trong quân dân. Lực lượng vũ trang 
địa bàn căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ. và du kích vận dụng linh hoạt các hình thức tác 
 Từ năm 1961, địch mở những cuộc hành quân chiến như tập kích, bắn tỉa, lừa dụ địch vào các 
càn quét quy mô lớn đánh vào các căn cứ địa cách hầm chông, bẫy đá để tiêu hao, tiêu diệt khiến cho 
mạng ở miền núi Trung Trung Bộ. Với tinh thần chúng hoang mang, chùn bước khi tổ chức các cuộc 
quyết tâm bảo vệ căn cứ, quân và dân các căn cứ càn quét vào căn cứ địa.
địa đã kiên cường bám trụ, chủ động, sáng tạo, tích Tháng 4/1963, để bảo vệ Mật khu Đỗ Xá (còn 
cực chiến đấu đập tan nhiều cuộc càn quét của địch. gọi là Căn cứ Nước Là), bộ đội địa phương và du 
 Ngày 28/2/1961, phát hiện cơ quan Khu uỷ V kích Trà Bồng phối hợp với quân chủ lực của Khu 
đang đóng ở Nước Là, đối phương huy động một V cùng với quân dân các địa bàn lân cận tổ chức 
tiểu đoàn với sự yểm trợ của trực thăng thực hiện đổ chiến đấu liên tục bao vây và tấn công địch,“tiêu 
quân, bao vây, đánh phá cơ quan, tiêu diệt lực lượng diệt 600 quân, bắn rơi và làm hỏng 20 trực thăng, 
kháng chiến ở Nước Là nhưng chúng bị tổn thất địch phải vội vã rút quân” [6, tr. 111].
nặng, buộc phải bỏ dỡ cuộc hành quân [8, tr. 89]. Ác liệt và dai dẳng hơn cả là cuộc chiến đấu 
 Tháng 2/1962, được tin địch chuẩn bị hành của quân dân Sơn - Cẩm - Hà chống lại cuộc càn 
quân đánh lên Căn cứ Vân Hòa (Phú Yên), lực “Bình Châu” kéo dài suốt từ tháng 7/1963 đến 
lượng vũ trang bảo vệ căn cứ đã tổ chức đánh ngăn tháng 10/1963. Trong thời gian này, địch liên tục 
chặn các đại đội lính địch càn quét trên Đường số huy động hàng chục xe GMC chở quân lính cùng 
6, Ma Lào, Hố Thẩm, Hòn Chai, Đá Líp. Kết quả là với sự yểm trợ của M113 tổ chức nhiều cuộc tiến 
117 tên địch đã bị tiêu diệt, Căn cứ Vân Hòa được công, tập trung đánh vào Tiên Phong, nơi đứng 
bảo vệ an toàn. Tháng 9/1962, nắm được ý đồ địch chân của cơ quan Tỉnh ủy Quảng Nam. Bộ đội địa 
sẽ sử dụng chiến thuật “trực thăng vận” đổ quân phương tỉnh và du kích chặn đánh quyết liệt, địch 
xuống căn cứ Nà Niêu, Trà Bồng (Quảng Ngãi), bị tổn thất nặng nề. Để đối phó với tình hình, địch 
các lực lượng trụ bám tại đây đã chủ động chuẩn chuyển sang tập trung quân hình thành các chiến 
bị sẵn sàng một hệ thống công sự bao quanh khu đoàn, đưa thêm lực lượng Sư đoàn 2 Việt Nam 
vực dự kiến địch đổ quân, tổ chức chặn đánh địch Cộng hòa lên càn trở lại Tiên Sơn, Tiên Cẩm, Tiên 
không cho chúng đổ quân. Trong trận đánh này, Phong; đổ quân đóng một số chốt điểm tại Tiên 
các lực lượng bảo vệ căn cứ đã bắn rơi 12 máy bay Sơn; kéo 10 tiểu đoàn địch từ Tam Kỳ lên đóng rải 
lên thẳng, tiêu diệt và làm bị thương 70 quân, đẩy rác ở các xã Tiên Sơn, Tiên Cẩm, Tiên Phong, Tiên 
chúng ra khỏi hành lang căn cứ địa, bảo vệ được Mỹ và một số xã của huyện Tam Kỳ, Thăng Bình. 
cơ quan lãnh đạo của Khu V [6, tr. 109]. Cuộc đấu tranh bảo vệ căn cứ địa cách mạng lần 
 Trong năm 1963, địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt này được thực hiện trên cả ba mũi giáp công. Thực 
động đánh phá. Tuy nhiên, với kinh nghiệm chiến hiện kế hoạch phối hợp của Tỉnh đội và Huyện đội, 
đấu của các năm 1961-1962, quân dân căn cứ địa trong khi lực lượng vũ trang tỉnh đánh vào các ấp 
Trung Trung Bộ tiếp tục tiến lên đánh bại hầu hết chiến lược ở Tiên Sơn, thôn 4 Tiên Cẩm, Gò Bụp, 
các cuộc càn quét quy mô lớn của địch tấn công vào Tiên Phong, bộ đội huyện, du kích các xã nhân cơ 
các căn cứ, gây cho địch nhiều thương vong, bảo hội này đã đẩy mạnh tấn công, giải phóng các xã 
vệ an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến. Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiên Cẩm. Quân Việt Nam 
 Tháng 2/1963, trong cuộc chiến đấu chống Cộng hòa bị tổn thất, buộc chúng phải rút lui. Cùng 
lại các cuộc càn quét lớn mang tên “Lam Sơn 7” lúc này, phong trào du kích chiến tranh phát triển 
44
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019)
mạnh mẽ, du kích các xã quần bám đánh địch, tham của phong trào du kích chiến tranh đã góp phần 
gia chống càn, liên tục quấy rối địch. Hỗ trợ cho tiêu hao một bộ phận sinh địch, hạn chế sự đánh 
hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang, phong phá của chúng đối với các căn cứ địa.
trào đấu tranh chính trị của nhân dân diễn ra dưới Cùng với thắng lợi của chiến tranh du kích, 
nhiều hình thức. Nhân dân Tiên Sơn, Tiên Cẩm trong năm 1964 và 1965, lực lượng vũ trang chính 
vừa phối hợp với du kích và bộ đội phá rào thép quy cũng lập nên nhiều chiến công tiêu biểu trong 
gai, lấp chiến hào của địch, vừa xây dựng vừa đấu cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa. Tháng 4/1964, lực 
tranh đòi địch bồi thường lúa, nhà cửa bị đốt, bồi lượng an ninh vũ trang của tỉnh Quảng Ngãi và căn 
thường nhân mạng những người bị chết do bom cứ Trà Bồng phối hợp với các đơn vị vũ trang Khu 
đạn, đòi chồng con bị bắt lính trở về Đến cuối V tổ chức phục kích đánh bại cuộc hành quân càn 
tháng 10/1963, các mũi đấu tranh của lực lượng quét của địch mang tên “Chiến dịch Quyết thắng 
vũ trang và quần chúng đã làm phá sản chiến dịch 202” đánh vào căn cứ Nước Là, bảo vệ an toàn cho 
“Bình Châu” của địch, bảo vệ vững chắc căn cứ phần lớn các cơ quan, kho tàng, các cơ sở sản xuất, 
Sơn - Cẩm - Hà [8, tr. 91]. đường dây, trạm trại trong căn cứ. Cũng trong tháng 
 Trong điều kiện quân đội Việt Nam Cộng hòa 4/1964, các lực lượng trụ bám đã bẻ gãy cuộc càn 
dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ, tiến hành đánh phá quét của địch tấn công vào Căn cứ Núi Bà, tiêu diệt 
ngày càng ác liệt, việc đẩy mạnh phong trào du kích 50 tên, bắn rơi 7 máy bay trực thăng, thu nhiều vũ 
chiến tranh trở thành yêu cầu tất yếu, góp phần quan khí trang bị chiến tranh. 
trọng vào hoạt động chiến đấu bảo vệ các căn cứ Trên cơ sở những thắng lợi và kinh nghiệm 
địa ở Trung Trung Bộ. Lực lượng du kích các địa chiến đấu, trong năm 1965, các lực lượng trụ bám 
phương không ngừng được củng cố và tăng cường. tiếp tục đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt” tấn 
Mỗi thôn thành lập 1 trung đội dân quân, xã có 1 công vào căn cứ địa ở Trung Trung Bộ. 
đến 2 trung đội du kích. Hệ thống làng chiến đấu Ngày 14/12/1965, địch mở cuộc càn lớn với 
được chú trọng xây dựng vững chắc. Cuối 1965, trên 1.200 lính thủy đánh bộ Mỹ tấn công vào Căn 
Quảng Đà có 107 thôn và 5 xã xây dựng làng chiến cứ Sơn - Cẩm - Hà. Tuy nhiên, khi vào đây, đi đến 
đấu, huy động 49.350 công của quần chúng tham đâu chúng cũng vấp phải hầm chông, bãi mìn do 
gia phát triển 229 tuyến chiến đấu dài 3.727 m và nhân dân và du kích cài đặt. Lực lượng du kích các 
nhiều bờ rào, chông thò, cạm bẫy [7, tr. 50]. Quảng xã Tiên Sơn, Tiên Cẩm lúc ẩn, lúc hiện liên tục bắn 
Ngãi cũng xây dựng 294 thôn chiến đấu, đào được tỉa, phục kích, tập kích làm chết và bị thương hàng 
gần 20 km địa đạo và 710 km giao thông hào, 845 chục quân địch. Sau 3 ngày bị tiêu hao lực lượng, 
công sự chiến đấu, 26.547 hầm chống tăng [1, tr. chiều ngày 17/12/1965, địch kéo xuống Cẩm Khê. 
230]. Các thôn xã chiến đấu được xây dựng vững Lúc này, Trung đoàn Ba Gia và Tiểu đoàn 70 đã dựa 
mạnh đã phát huy tác dụng tốt trong việc chống lại vào địa hình quanh co, vực thẳm, tổ chức bao vây, 
các hoạt động lùng sục, càn quét của địch vào căn phục kích, tiêu diệt 450 quân địch, bắn rơi 3 máy 
cứ địa. Bên cạnh đó, du kích tại các căn cứ địa ở bay. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Quảng 
Trung Trung Bộ còn sử dụng nhiều phương thức Nam, cuộc hành quân “tìm diệt” với quy mô cấp 
đánh giặc hết sức phong phú sáng tạo. Ở Phú Yên, tiểu đoàn của địch đã hoàn toàn thất bại [2, tr. 128]. 
du kích An Xuân dùng cả ong vò vẽ đánh giặc. Du Căn cứ Sơn - Cẩm - Hà vẫn đứng vững.
kích Hòa Xuân dùng súng giả chặn tàu địch thu vũ 3. Một số nhận xét 
khí. Du kích Đồng Xuân tháo ốc đường ray sau đó Từ quá trình ra đời, hoạt động xây dựng thế 
kéo đường ray cho tàu địch đổ Du kích huyện trận và chiến đấu bảo vệ các căn cứ địa ở Trung 
Hiên (Quảng Nam) chế tạo dàn thò liên hoàn làm Trung Bộ, có thể rút ra một số nhận xét sau đây: 
chết một lúc hàng chục tên địch. Trong năm 1965, Thứ nhất, các căn cứ địa ra đời chủ yếu tập 
lực lượng vũ trang và du kích các xã căn cứ miền trung ở địa bàn miền núi. Sự tồn tại và đứng vững 
núi tỉnh Quảng Đà đã đánh 25 trận, tiêu diệt hàng của các căn cứ đã tạo nên thế bao vây, uy hiếp đối 
trăm quân địch [7, tr. 50]. Sự phát triển mạnh mẽ với các cơ quan đầu não của địch ở đồng bằng, vì 
 45
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019)
vậy chúng coi việc đối phó với các căn cứ trở thành mà lực lượng cách mạng không ngừng được bảo 
“vấn đề cấp thiết trước mắt cần phải tiến hành một tồn và xây dựng, hoạt động chiến tranh du kích phát 
cách khẩn trương gấp rút hơn bao giờ hết” [10, tr. triển. Sự ra đời, phát triển của các căn cứ địa cách 
30]. Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã tập trung lực mạng và thực tiễn chiến trường miền Nam trong 
lượng với quy mô lớn để đánh vào các căn cứ địa đó có vùng Trung Trung Bộ là cơ sở quan trọng để 
cách mạng. Thế nhưng, chẳng những địch không Đảng xác định con đường tiến lên của cách mạng 
tiêu diệt được lực lượng ở các căn cứ mà chúng còn miền Nam, đó là: “có khởi nghĩa bộ phận, lập căn 
bị tổn thất nặng nề. Hoạt động chiến đấu của lực cứ địa, có chiến tranh du kích rồi tiến lên tổng khởi 
lượng vũ trang và nhân dân các căn cứ miền núi nghĩa”[4, tr. 31].
không những đã góp phần tiêu hao đáng kể một bộ 4. Kết luận
phận sinh lực địch mà còn khiến chúng phải co cụm Cũng với sự ra đời, phát triển và hoạt động 
về đồng bằng, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang của các căn cứ địa ở Trung Trung Bộ trong cuộc 
xây dựng bàn đạp để mở rộng căn cứ về đồng bằng. kháng chiến chống Mỹ là cuộc chiến đấu ác liệt để 
 Thứ hai, các căn cứ địa cách mạng trở thành bảo vệ các căn cứ này trong những năm 1961-1965. 
nơi đứng chân an toàn cho các cơ quan lãnh đạo, Cuộc chiến đấu bảo vệ các căn cứ địa diễn ra với sự 
chỉ huy kháng chiến ở Khu V và các địa phương phối hợp của lực lượng ba thứ quân trên lĩnh vực 
đồng thời là nơi xây dựng và phát triển tiềm lực quân sự là chủ yếu, lần lượt làm thất bại âm mưu 
cách mạng của địa phương. Trong kháng chiến của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa, đây là một cơ sở 
chống Mỹ, cơ quan Khu ủy V và Bộ Tư lệnh Quân để làm thất bại chiến lược ‘Chiến tranh đặc biệt’ 
khu V chủ yếu đứng chân hoạt ở Nước Là, Nước (196-1965) của Mỹ ở Trung Trung Bộ. 
Oa. Căn cứ Sơn - Cẩm - Hà là nơi đứng chân của Sự tồn tại vững chắc của các căn cứ địa ở 
Tỉnh ủy Quảng Nam. Ban chỉ đạo tiền phương và Trung Trung Bộ đã đáp ứng được yêu cầu của cuộc 
các cơ quan Tỉnh ủy Bình Định đóng cơ quan ở các kháng chiến tại địa phương, tạo nên thế trận chiến 
Căn cứ Núi Bà. Tỉnh ủy Phú Yên đứng chân ở Căn tranh nhân dân rộng khắp nhằm làm thất bại các 
cứ Vân Hòa. Lực lượng vũ trang Quân khu V và hoạt động đánh phá của địch, bảo vệ an toàn nơi 
các địa phương ra đời và được tổ chức huấn luyện đứng chân của các cơ lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến 
tại các căn cứ. Bên cạnh hoạt động chiến đấu, các của các tỉnh và Khu V trong thời kỳ kháng chiến 
căn cứ còn chủ động sản xuất tự cấp, tự túc, thực chống Mỹ cứu nước. Đây cũng là cơ sở để khẳng 
hiện nghĩa vụ của hậu phương tại chỗ đối với cuộc định đường lối đúng đắn của Đảng về xây dựng căn 
kháng chiến tại địa bàn. cứ địa cách mạng miền Nam. Từ đó, góp phần tạo 
 Thứ ba, sự tồn tại và đứng vững của các căn thế và lực mới cho một giai đoạn chiến đấu mới, 
cứ địa cách mạng nói trên góp phần thúc đẩy phong giai đoạn đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục 
trào cách mạng Khu V. Chính nhờ có các căn cứ địa bộ ” (1965-1968) của đế quốc Mỹ./.
 Tài liệu tham khảo
 [1]. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1999), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1945-
1975), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
 [2]. Ban Chỉ huy quân sự huyện Tiên Phước (1999), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân Huyện 
Tiên Phước (1945-1975), Ban Chỉ huy quân sự huyện Tiên Phước xuất bản.
 [3]. Báo cáo bổ sung về tình hình miền núi Liên khu V, Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, Kí hiệu 
K5/13.7.
 [4]. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.
 [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 20, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
 [6]. Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự huyện Trà Bồng (2010), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân 
huyện Trà Bồng (1945 - 2010), NXB Quân đội Nhân dân.
 [7]. Đặc khu ủy Quảng Đà (1965), Báo cáo tình hình địch và hoạt động của ta trong năm 1965, 
Tài liệu lưu tại Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, kí hiệu 39 - III.
46
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 36 (02-2019)
 [8]. Trần Thuý Hiền (2015), Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ 
(1954-1975), Luận án tiến sĩ Lịch sử Đại học Sư phạm Huế.
 [9]. Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến (1995), Nam Trung Bộ kháng chiến 
1945 - 1975, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
 [10]. Tài liệu về vấn đề đối phó với mật khu VC ở Trung cao nguyên Trung phần, TTLTQGII, Kí 
hiệu hồ sơ: PTT 15234.
 THE STRUGGLE TO PROTECT THE REVOLUTIONARY MILITARY BASES 
 IN THE MID – CENTRAL REGION IN THE ANTI – AMERICAN WAR (1960-1965)
 Summary
 The revolutionary military bases in the coastal provinces of the Mid-Central Region were established 
under the Party’s policy in order to deal with increasing terrorist campaigns launched by the US-supported 
government of Ngo Dinh Diem against revolutionary cadres in South of Vietnam after the 1954 Geneva 
Agreements were signed. These bases built mostly in mountainous, diffi cult areas include typically 
Nuoc Oa, Nuoc La, Son-Cam-Ha, West Quang Ngai Province, Nui Ba, and Van Hoa. The enemies (i.e. 
Republic Vietnam and US Armies) launched intensive military offensives in order to destroy those 
evolutionary bases. However, the local people and the revolutionary army bravely fought back and 
defeated the large-scale military operations, successfully protected the headquarters of the resistance 
war. In fact, the bases’ establishment and resilience signifi cantly contributed to the development of the 
revolutionary movement in the local region. It also helped the Party develop Vietnam’s revolutionary 
strategy to defeat that of the US imperialists’ “Attrition War”.
 Keywords: Anti-American War; revolutionary military base; the mid-central region; military 
offensive; “Attrition War” strategy.
 Ngày nhận bài: 16/10/2018; Ngày nhận lại: 22/01/2019; Ngày duyệt đăng: 22/02/2019.
 47

File đính kèm:

  • pdfdau_tranh_bao_ve_can_cu_dia_cach_mang_o_trung_trung_bo_trong.pdf