Đánh giá việc phân bổ tài nguyên khoáng sản Việt Nam theo khía cạnh kinh tế và chính sách
Là quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản khá đa dạng và phong phú, công nghiệp
khai khoáng do đó đã trở thành một trong những ngành mũi nhọn đóng góp lớn vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bài viết phân tích thực trạng phân bổ tài nguyên khoáng sản theo
thành phần kinh tế và theo thời gian, việc phân bổ nguồn thu từ tài nguyên khoáng sản và từ đó
đánh giá việc phân bổ tài nguyên khoáng sản của Việt Nam trên hai khía cạnh là kinh tế và chính
sách. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất ba nhóm giải pháp để hỗ trợ Việt Nam phân bổ hiệu quả
nguồn tài nguyên này, gồm: xác định rõ ràng và đầy đủ mục tiêu phân bổ tài nguyên khoáng sản,
xây dựng các chính sách phân bổ tài nguyên khoáng sản hướng tới kinh tế thị trường và xây dựng
các chính sách đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá việc phân bổ tài nguyên khoáng sản Việt Nam theo khía cạnh kinh tế và chính sách
thị trường đã được hướng dẫn triển khai trên thực tế như đấu giá quyền KTKS và thu tiền cấp quyền KTKS. Tuy nhiên, một số khía cạnh liên quan đến việc sử dụng các công cụ thị trường để quản lý TNKS như cách tính thuế, phí phải nộp của doanh nghiệp, định giá các mỏ khoáng sản trước khi tổ chức cấp phép hoặc đấu giá chưa phản ánh chính xác tín hiệu của thị trường. Cách tính thuế tài nguyên chưa tính tới các yếu tố về điều kiện khó dễ trong KTKS, tiết kiệm khoáng sản và sự thay đổi giá cả trên thị trường thế giới. Sản lượng tính thuế tài nguyên không dựa trên thông lệ quốc tế đã dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp khi khai thác chỉ sử dụng những tài nguyên có giá trị cao, dễ khai thác, không tốn kém chi phí [12]. Những quy định về sử dụng nguồn thu để bù đắp cho địa phương và người dân tại địa phương có khoáng sản hiện nay cũng mang tính hành chính hơn là phản ánh các tín hiệu thị trường. Việc phân bổ TNKS của Việt Nam hiện nay còn thiếu quy hoạch tổng thể, không tính toán đến bài toán kinh tế môi trường để trả lời câu hỏi phân bổ TNKS theo thời gian. Việc phân bổ TNKS theo các thành phần kinh tế phụ thuộc quá lớn vào các DNNN và doanh nghiệp FDI, dẫn đến mức độ cạnh tranh trên thị trường khoáng sản còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc khai thác và xuất khẩu khoáng sản cũng chưa thật sự bám sát với tín hiệu của thị trường thế giới. Hệ quả của việc phân bổ TNKS chưa theo nguyên tắc thị trường là tình trạng cấp phép tràn lan, khai thác bừa bãi với công nghệ lạc hậu và tổn thất cao, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của cả thế hệ hiện tại và tương lai. Với việc phân bổ TNKS không tính đến bài toán kinh tế môi trường, nhiều loại khoáng sản của Việt Nam có nguy cơ cạn kiệt trong tương lai gần như dầu khí, barit và vàng. Mục tiêu phát triển ngành khoáng sản có giá trị gia tăng cao cũng rất khó đạt được vì trên thực tế, các doanh nghiệp vì muốn thu lợi nhuận nhanh nên chủ yếu chế biến ở mức quặng và tinh quặng, ít tạo ra giá trị gia tăng. Cách tính thuế, phí chưa hợp lý cũng dẫn đến dẫn đến tình trạng lãng phí và thất thoát TNKS [12]. Tổn thất trong khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam ở mức rất cao, dẫn tới Việt Nam có thể thất thu ngân sách lên tới cả tỷ USD trong ngành này [7, 8]. Việc chưa tuân thủ tín hiệu thị trường còn là một trong các nguyên nhân khiến cho nguồn thu xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách, cho GDP của Việt Nam từ khoáng sản trong những năm gần đây giảm sút. Năm 2014, xuất khẩu ngành khai khoáng của Việt Nam đạt hơn 8,1 tỷ USD, đến năm 2018 giảm xuống còn 2,8 tỷ USD. Ngoài lý do hoạt động xuất khẩu khoáng sản được quản lý chặt chẽ hơn, một lý do quan trọng khác là Việt Nam vẫn tiếp tục xuất khẩu V.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-10 8 khoáng sản thô sang thị trường Trung Quốc với giá xuất khẩu chỉ bằng khoảng 50% giá quặng xuất khẩu trung bình của Việt Nam ra thị trường thế giới [10]. Quy mô khai thác các TNKS như than đá, quặng sắt, quặng đồng, các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng vẫn tương đối lớn và tăng nhưng đóng góp cho NSNN và GDP từ ngành KTKS tiếp tục giảm trong những năm gần đây. 3.3. Đánh giá việc phân bổ tài nguyên khoáng sản cho mục tiêu chính sách Hoạt động phân bổ TNKS ở Việt Nam chưa rõ ràng và chồng chéo. Việc chia sẻ thông tin và phối hợp giữa các Bộ, ngành lỏng lẻo; chức năng quản lý nhà nước về TNKS vừa bị chồng chéo, vừa bị gián đoạn do có nhiều Bộ, ngành cùng quản lý; việc phân cấp quản lý chưa khoa học là những vấn đề trong quản lý phân bổ TNKS hiện nay. Hệ quả của những vấn đề trên cộng với đặc trưng nhiều giai đoạn của hoạt động KTKS đã dẫn đến tình trạng nhiều cơ quan tham gia quản lý nhưng phối hợp không đồng bộ, ban hành những quy định phân bổ TNKS không phù hợp và kịp thời. Hoạt động phân bổ TNKS thông qua cấp phép nhiều khi diễn ra khá tùy tiện, có yếu tố tham nhũng. Quy định về cấp phép hoạt động khoáng sản có mức độ sai phạm khá cao, 1.086 sai phạm trên 957 giấy phép [15]. Sự tùy tiện trong cấp phép đã không sàng lọc được các doanh nghiệp thật sự đủ năng lực để tham gia ngành, dẫn đến không đảm bảo sự công bằng trong tiếp cận TNKS giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế; đồng thời tạo môi trường gia tăng các hoạt động KTKS trái phép, tổn thất TNKS ngày càng cao, nguy cơ cạn kiệt TNKS và ô nhiễm môi trường ngày càng lớn. Hoạt động phân bổ TNKS chưa đảm bảo tính minh bạch và công khai để tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp đầu tư bền vững. Theo khảo sát của VCCI năm 2014, doanh nghiệp khai khoáng đánh giá thấp về mức độ minh bạch của môi trường kinh doanh ở Việt Nam. 72% doanh nghiệp khai khoáng phải dựa vào mối quan hệ với cơ quan nhà nước để tiếp cận thông tin, tài liệu và 85% doanh nghiệp thường xuyên phải chi trả các khoản tiền không chính thức trong quá trình hoạt động [5, 7]. Việc thiếu minh bạch còn làm cho các doanh nghiệp khai khoáng từ các nước phát triển có công nghệ tốt, trách nhiệm xã hội cao ngày càng ít xin giấy phép đầu tư KTKS và chế biến khoáng sản ở Việt Nam, trong khi các doanh nghiệp Trung Quốc ngày càng tăng. Hoạt động phân bổ nguồn thu từ TNKS cũng chưa thật sự đảm bảo công khai và minh bạch. Hiện nay, các khoản thu từ TNKS đều được đưa vào NSNN, sau đó được phân bổ vào năm tiếp theo. Nhà nước không tính được mức độ thất thu ngân sách từ khoáng sản đã cấp phép khai thác và cũng chưa xem xét các nguồn thu hiện hành có đủ để bù đắp các chi phí do KTKS gây ra đối với hạ tầng và môi trường. Việc thiếu một cơ chế quản lý độc lập các nguồn thu từ TNKS và không hoạch định minh bạch mục đích sử dụng của các nguồn thu này tiềm ẩn nhiều nguy cơ, ảnh hưởng đến nguyên tắc căn bản của phát triển bền vững và có khả năng dẫn đến “lời nguyền tài nguyên”. Phân bổ nguồn thu từ hoạt động khoáng sản cho người dân tại địa phương có khoáng sản được khai thác cũng chưa được cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn, thiếu cơ sở pháp lý và minh bạch. Nguồn thu TNKS từ doanh nghiệp được bao nhiêu và phân bổ như thế nào để đảm bảo quyền lợi người dân đều chưa minh bạch. Thực tế ngành khai khoáng thu hút lực lượng lao động với mức thấp hoặc tạo việc làm nhưng thu nhập thấp, không ổn định. Như vậy, người dân hầu như không nhận được hoặc nhận được rất ít hỗ trợ từ nguồn thu hoạt động khoáng sản, trong khi phải chịu hậu quả về môi trường và những áp lực do hoạt động KTKS gây ra. Việc không công khai minh bạch sử dụng nguồn thu từ KTKS cho người dân đã gây ra những mâu thuẫn và xung đột về lợi ích, đặc biệt là giữa doanh nghiệp KTKS và người dân như tại một số địa phương [8]. Những quy định và yêu cầu về công khai, minh bạch việc sử dụng các nguồn thu từ TNKS còn thiếu, dẫn đến thông tin và số liệu về thuế tài nguyên hiện nay chỉ được công khai ở cấp độ quốc gia. Số liệu chi tiết ở cấp độ địa phương hầu như vẫn chưa được công bố, làm V.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-10 9 cho người dân không có thông tin để so sánh, đối chiếu; gây khó khăn cho cộng đồng trong việc giám sát hoạt động KTKS và quản lý thuế tài nguyên. Doanh nghiệp cũng không được cung cấp thông tin về việc sử dụng nguồn thu từ TNKS [11]. 4. Kết luận và khuyến nghị Trên khía cạnh phân bổ theo khu vực kinh tế, Việt Nam đã có những nỗ lực mở rộng phân bổ TNKS cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, các TNKS quan trọng như dầu khí, than, khoáng sản hoá chất vẫn được giao cho DNNN... Trên khía cạnh phân bổ theo thời gian, Việt Nam đã có những điều chỉnh nhất định với căn cứ chủ yếu là nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước và chiến lược tăng trưởng kinh tế. Về phân bổ nguồn thu từ TNKS, việc phân bổ chưa đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng. Phân bổ TNKS của Việt Nam còn tồn tại một số vấn đề trên hai khía cạnh là kinh tế và chính sách. Về mặt kinh tế, Việt Nam chưa chú trọng đến bài toán kinh tế môi trường, hiệu quả khi phân bổ TNKS theo thời gian và chưa thật sự dựa trên nguyên tắc thị trường khi phân bổ TNKS theo khu vực kinh tế. Về mặt chính sách, hoạt động phân bổ TNKS chưa rõ ràng, chồng chéo, thiếu công khai và minh bạch, có yếu tố tham nhũng, do đó chưa đảm bảo tính công bằng trong phân bổ TNKS cả về không gian và thời gian. Với thực trạng và các vấn đề đặt ra như trên, bài viết đưa ra ba nhóm khuyến nghị để hỗ trợ Việt Nam phân bổ TNKS một cách hiệu quả, công bằng, công khai và minh bạch hơn. Xác định rõ ràng và đầy đủ mục tiêu phân bổ TNKS. Thứ nhất, cần thể chế hóa mục tiêu phân bổ TNKS ngay trong các Luật trực tiếp liên quan đến TNKS để từ đó thống nhất được quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, bao trùm trong phân bổ TNKS. Thứ hai, với những đặc trưng của TNKS, cần xây dựng đầy đủ và rõ ràng cả ba mục tiêu phân bổ là mục tiêu kinh tế, chính sách và quốc phòng an ninh; xác định rõ mục tiêu phân bổ giữa các thành phần kinh tế, theo thời gian. Thứ ba, TNKS cần được phân bổ cho các doanh nghiệp khai thác trên cơ sở kết hợp giữa tín hiệu thị trường và sự quản lý của Nhà nước theo nguyên tắc các doanh nghiệp bất kể thuộc thành phần kinh tế nào, miễn là khai thác hiệu quả và bền vững, sẽ được tiếp cận và khai thác nguồn lực này. Thứ tư, cần xây dựng chiến lược và quy hoạch phân bổ, khai thác, sử dụng TNKS phù hợp với từng giai đoạn phát triển và vì lợi ích quốc gia. Xây dựng các chính sách phân bổ TNKS hướng tới nền kinh tế thị trường. Cần xây dựng các công cụ kinh tế phân bổ TNKS như thuế, lệ phí, định giá mỏ, đấu thầu một cách tin cậy, minh bạch, dự đoán được và có thể điều chỉnh phù hợp với tín hiệu thị trường trong nước cũng như quốc tế. Về phân bổ nguồn thu từ TNKS: cần chú trọng đến phân bổ nguồn thu để tái đầu tư, đảm bảo lợi ích cho địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác, đem lại lợi ích cho cả thế hệ hiện tại cũng như tương lai. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm thế giới để nguồn thu từ TNKS không chỉ quay lại phát triển ngành khoáng sản mà còn có thể đầu tư vào nhiều hoạt động khác của nền kinh tế để sinh lời và tránh bẫy “lời nguyền tài nguyên”. Xây dựng các chính sách phân bổ TNKS đảm bảo công bằng, công khai và minh bạch. Cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng Bộ, ngành và địa phương trong phân bổ TNKS cũng như cơ chế phối hợp cụ thể để xác định trách nhiệm chủ trì, trách nhiệm phối hợp, cách thức phối hợp. Tăng cường vai trò của địa phương trong quản lý TNKS, tăng cường minh bạch trong việc cấp giấy phép để đảm bảo tính công bằng giữa các doanh nghiệp, từ đó lựa chọn được nhà đầu tư có đủ năng lực tham gia ngành. Bên cạnh đó, cần xây dựng một cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin về TNKS giữa các cấp, các ngành; huy động sự tham gia của người dân và cộng đồng dân cư trong việc giám sát, đánh giá các hoạt động KTKS. Cuối cùng, Việt Nam cần đẩy nhanh tiến trình xem xét thực thi Sáng kiến minh bạch trong khai khoáng (EITI) để không chỉ giảm thất thu ngân sách, mà còn góp phần tạo ra cơ chế đối thoại hiệu quả, minh bạch và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp khoáng sản có V.T. Huong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-10 10 công nghệ tốt, hiệu quả cao yên tâm đầu tư bền vững. Tài liệu tham khảo [1] General Department of Geology and Minerals of Vietnam, “An introduction of Vietnam’s mineral potentials”. ve-tiem-nang-khoang-san-viet-nam/, 2017 (accessed 10 July 2019) (in Vietnamese). [2] Nguyen Ninh Tuan, “Improving market economy mechanism in managing mineral resources of Vietnam”, Paper presented in Conference “Improving market economy mechanism in managing resources, protecting environment and responding to climate change in Vietnam”, Hanoi 9/11/2017 (in Vietnamese). [3] Nguyen Ngoc Khanh, “Developing sustainably mineral exploting and processing industry”, Financial Journal, No. 2/2017, 2017 (in Vietnamese). [4] Tran Thanh Thuy, Trinh Le Nguyen, Nguyen Viet Dung, Minerals - Development - Environment: Comparing theory to practices, Hanoi: People and Nature Reconciliation, 2012 (in Vietnamese). [5] VCCI, Current performance of miniral enterprises in Vietnam, Hanoi: VCCI, 2014 (in Vietnamese). [6] General Department of Geology and Minerals of Vietnam, Improving efficiency of state revenue in mining industry from policy reform in Vietnam, Hanoi: Ministry of Natural Resources and Environment, 2014 (in Vietnamese). [7] VCCI, Vietnam Mining Coalition & PanNature, Applying international standards to well manage mining industry in Vietnam, Hanoi: VCCI, Vietnam Mining Coalition, 2015 (in Vietnamese). [8] VCCI, Vietnam Mining Coalition & PanNature, Vietnam joins Extractive Industries Transparency Initiative (EITI): Opportunities or barriers. Hanoi VCCI, Vietnam Mining Coalition, PanNature, 2016 (in Vietnamese). [9] Le Viet Trung, Pham Van Chat, “An overivew of Vietnam’s petroleum industry”, Petro Vietnam Journal 4 (2016) 56-64 (in Vietnamese). [10] Nguyen Ngoc Khanh, “Some issues on state management of mineral exports”, Online Financial Journal 2/1/2019. cuu-trao-doi/mot-so-van-de-ve-quan-ly-nha-nuoc- doi-voi-hoat-dong-xuat-khau-khoang-san- 301353.html/, 2019 (accessed 2 March 2020) (in Vietnamese). [11] Le Xuan Truong, Le Quang Thuan, Nguyen Ngoc Quang, Nguyen Minh Phuong, Law on Resource and resource tax management from perspective of promoting transparency and mamaging efficiently revenue, Hanoi: Vietnam Mining Coalition, 2018 (in Vietnamese). [12] PanNature, Policy recommendations - Law on Resource: Should move towards improvement of efficiency and transparency in managing and using extractive revenues, Hanoi: PanNature, 2018 (in Vietnamese). [13] Vietnam Union of Geological Sciences et al., Current status on management and use mineral resouces of Vietnam, Hanoi: Vietnam Union of Geological Sciences et al, Vietnam Union of Science and Technology, Consultative Institute for Development, 2012 (in Vietnamese). [14] General Statistics Office of Vietnam, Statistical Yearbook 2018, Hanoi: Statistical Publishing House, 2018 (in Vietnamese). [15] PanNature, Report on compliance of legal regulations on transparency in exploiting minerals, Hanoi: PanNature, 2017 (in Vietnamese). [16] Le Van Huong, “Impacts of exploiting minerals on socio-economic lives of community in the West of Nghe An”, Journal of Earth Sciences 37 (2015) 213-221 (in Vietnamese). [17] Detter, Dag & Folster, Stefan, The public wealth of nations: How management of public assets can boost or bust economic growth, The Hampshire , UK: Palgrave Macillan, 2015. p
File đính kèm:
- danh_gia_viec_phan_bo_tai_nguyen_khoang_san_viet_nam_theo_kh.pdf