Đánh giá tình hình sinh trưởng của các loài cây bản địa theo các dạng lập địa khác nhau: Nghiên cứu trường hợp với 3 loài cây lim xanh, trám trắng và huỷnh tại tỉnh Quảng Bình
Bài báo trình bày kết quả đánh giá sự phù hợp, sinh trưởng và phát triển của các loài cây trồng bản
địa trên các dạng lập địa khác nhau tại tỉnh Quảng Bình. Kết quả phân tích tại các ô theo dõi đo đếm và bố
trí thí nghiệm trên các loài Lim xanh (Erythrophleum fordi Oliv), Trám trắng (Canarium album Raeusch),
Huỷnh (Tarrietia javanica Blume) từ năm 1 đến năm 6 cho thấy tỷ lệ sống của các loài đạt khá cao, trên 82%;
Lượng tăng trưởng bình quân tới tuổi 6 về đường kính của các loài cây dao động từ 1,46-1,95cm/năm; Biện
pháp xử lý thự bì có ảnh hưởng rõ rệt tới sinh trưởng chiều cao và đường kính ngang ngực của các loài.
Công thức xử lý thực bì phù hợp là xử lý thực bì theo băng. Các dạng lập địa khác nhau ảnh hưởng đến tỷ
lệ sống và các chỉ tiêu sinh trưởng của các loài. Cây Lim xanh và cây Trám trắng thích hợp hơn với dạng lập
địa B.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tình hình sinh trưởng của các loài cây bản địa theo các dạng lập địa khác nhau: Nghiên cứu trường hợp với 3 loài cây lim xanh, trám trắng và huỷnh tại tỉnh Quảng Bình
Chiều cao vút ngọn của Lim xanh trong CT1 qua kết quả điều tra cho thấy cao hơn hẳn so với ở CT2. Lượng trăng trưởng bình quân về chiều cao ở Lim xanh trong CT1 cao hơn so với ở CT2. Tuy nhiên, đối với Trám trắng thì sinh trưởng chiều cao ở CT1 thấp hơn ở CT2 và lượng tăng trưởng bình quân ở CT1 thấp hơn ở CT2; Hệ số biến động sinh trưởng chiều cao vút ngọn của Lim xanh có sự biến động lớn hơn ở Trám trắng nên có thể thấy Lim xanh sinh trưởng đồng đều hơn Trám trắng. Sử dụng tiêu chuẩn t của Student để so sánh giữa hai công thức; kiểm tra sự sai khác của phương sai bằng tiêu chuẩn F cho thấy P = 0,54 > 0,05 nên có thể kết luận phương sai hai mẫu bằng nhau; Giá trị |t Stat|= 11,1 > t Critical two-tail = 1,97, cho thấy hai mẫu có sự sai khác, như vậy sinh trưởng chiều cao ở CT1 cao hơn hẳn ở CT 2; tương tự ở Trám trắng giá trị |t Stat|= 3,48 > t Critical two-tail = 1,97, hai mẫu có sự sai khác, sinh trưởng chiều cao ở CT1 cao hơn ở CT2. Quan sát thực tế hiện trường cho thấy đối với loài Lim xanh ở phương pháp xử lý thực bì toàn diện, cây phân cành khá sớm, tỷ lệ khép tán sớm hơn ở phương pháp xử lý thực bì theo băng. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ lợi dụng gỗ về lâu dài đối với mục đích kinh doanh rừng gỗ lớn. Kết quả này khá phù hợp với các nghiên cứu về ảnh hưởng của lớp cây bụi thảm tươi đối với sinh trưởng của Lim xanh tại Hương Sơn (Hà Tĩnh) cho thấy nơi có độ tàn che cao (80-90%) sinh trưởng đường kính cổ rễ và chiều cao đạt cao giá trị cao nhất, ở nơi có độ tàn che thấp dưới 70% thì sinh trưởng thấp hơn hẳn [10]. Điều này cho thấy đối với giai đoạn đầu tính chịu bóng của Lim xanh còn rất cao; mặt khác khi vượt qua được chiều cao bình quân của cây bụi, thảm tươi thì cần hạn chế việc loại bỏ lớp cây bụi để duy trì độ ẩm và tạo hình cho thân cây. Chất lượng sinh trưởng của các loài cây được thể hiện ở bảng 7. Bảng 7. Ảnh hưởng của biện pháp xử lý thực bì đến chất lượng cây trồng Chất lượng cây trồng (%) Loài cây Công thức Tỷ lệ khép tán (%) Tốt Trung bình Xấu CT1 41,2 37,5 21,3 82 Lim xanh CT2 35,2 24,5 40,3 85 CT1 54,1 33,1 12,8 78 Trám trắng CT2 50,1 35,1 14,8 72 * Chú thích: CT1 là công thức xử lý thực bì theo băng; CT2 là công thức xử lý thực bì toàn diện Nguồn: Số liệu điều tra, 2016 48 Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 Kết quả nghiên cứu cho thấy Lim xanh trong công thức xử lý thực bì theo băng có chất lượng cây tốt và cây trung bình cao hơn ở công thức xử lý thực bì toàn diện. Kết quả này tương tự đối với loài Trám trắng. Tuy nhiên sự chênh lệch giữa tỷ lệ cây tốt 35,2–41,2% và cây xấu 21,3–40,3% ở Lim xanh cao hơn Trám trắng là 50,1–54,1% và 12,8–14,8%. Tỷ lệ khép tán của Lim xanh ở CT1 là 82% thấp hơn ở công thức 2 là 85%. Đối với Trám trắng thì tỷ lệ khép tán ở CT1 đạt 78% cao hơn ở CT2 đạt 72%. Như vậy, qua kết quả điều tra hai loài Lim xanh và Trám trắng tại các công thức xử lý thực bì khác nhau có thể thấy rằng thực bì có tác động tới sinh trưởng các loài cây bản địa tại khu vực nghiên cứu. Công thức xử lý thực bì phù hợp là xử lý thực bì theo băng. Tùy vào từng thời điểm để có thể có các biện pháp tác động tới thực bì khác nhau nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Qua kết quả trên cũng có thể thấy rằng lớp phủ thực bì không những có ý nghĩa trong giai đoạn đầu nhằm tạo tiểu khí hậu rừng, cải thiện tính chất đất rừng, hạn chế cỏ dại, tạo bóng mà còn có ý nghĩa trong giai đoạn sinh trưởng về sau của cây bản địa trước khi chúng khép tán hoặc trước khi chúng ưu sáng hoàn toàn. 3.4 Ảnh hưởng của các dạng lập địa đến các loài cây Trong thực tiễn sản xuất lâm nghiệp hiện nay, đất quy hoạch cho trồng rừng sản xuất không phải là những lập địa tốt nhất xét về cả điều kiện tự nhiên và điều kiện thảm thực vật [7]. Tại khu vực nghiên cứu đất dành cho trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh phần lớn trước đó là đất rừng tự nhiên nhưng sau đó bị mất đi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Với đặc điểm địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi các dãy núi, bên cạnh đó lại chịu ảnh hưởng của các tiểu khí hậu vùng khác nhau nên thảm thực bì cũng thay đổi và có sự khác biệt tùy theo khu vực. Ảnh hưởng của các dạng lập địa tới tỷ lệ sống Kết quả nghiên diễn biến tỷ lệ sống của hai loài Lim xanh và Trám trắng trên các dạng lập địa tại khu vực nghiên cứu thể hiện tại bảng 8. Bảng 8. Tỷ lệ sống các loài cây trồng theo các dạng lập địa khác nhau Loài Công thức Tỷ lệ sống (%) Tuổi 1 Tuổi 2 Tuổi 3 Tuổi 4 Tuổi 5 Tuổi 6 Lim xanh LĐ B 96,2 94,3 92,3 88,2 84,1 83,2 LĐ C 91,4 90,3 87,2 84,1 82,1 77,2 Trám trắng LĐ B 98,2 96,4 94,2 88,3 86,3 84,3 LĐ C 94,2 92,3 90,4 86,4 84,2 80,2 * Chú thích: LĐB là lập địa B, LĐC là Lập địa C Nguồn: Dự án khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng 49 Trần Trung Thành và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 Qua bảng kết quả tỷ lệ sống các loài cây ở các dạng lập địa qua các năm tuổi thấy rằng tỷ lệ sống tại nhóm dạng lập địa B của hai loài Lim xanh (96,2%) và Trám trắng (98,2%) cao hơn ở nhóm dạng lập địa C với các tỷ lệ 91,4% và 94,2%. Tỷ lệ sống giảm dần theo thời gian và đến tuổi 6 biến động từ 77,2–83,2% ở Lim xanh và 80,2–84,25 ở Trám trắng. Ảnh hưởng của các dạng lập địa đến khả năng sinh trưởng Kết quả nghiên cứu sinh trưởng đường kính và chiều cao của hai loài Lim xanh và Trám trắng trồng trên các dạng lập địa khác nhau thể hiện ở bảng 9. Qua kết quả tại bảng cho thấy rằng sinh trưởng về đường kính của cây Lim xanh trên nhóm dạng lập địa B qua các chỉ tiêu đường kính bình quân đạt 8,95 cm, lượng tăng trưởng đường kính đạt 1,49 cm/năm tốt hơn hẳn ở nhóm dạng lập địa C với các chỉ tiêu tương ứng là 7,23 cm và 1,2 cm/năm. Tương tự với các chỉ tiêu chiều cao bình quân (4,74 m), lượng tăng trưởng chiều cao bình quân (0,79 m/năm) cũng cao hơn tại nhóm dạng lập địa C tương ứng là 3,61 m và 0,6 m/năm. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sinh trưởng đường kính của Trám trắng trong điều kiện lập địa B là 11,2 cm và 1,87 cm/năm cao hơn tại điều kiện lập địa C chỉ đạt 10,44 cm và 1,74 cm/năm. Sinh trưởng chiều cao của Trám trắng trong điều kiện lập địa B với các chỉ tiêu chiều cao bình quân 4,78 m và lượng tăng trưởng bình quân 0,79 m/năm cao hơn trong điều kiện lập địa C là 4,49 m và 0,75 m/năm. Sử dụng các tiêu chuẩn t đánh giá cho thấy các giá |t Stat|= 4,23,1> t Critical two-tail = 2,16, nên có thể kết luận có sự sai khác về sinh trưởng của các loài cây trên các nhóm dạng lập địa khác nhau. Bảng 9. Sinh trưởng đường kính, chiều cao của các loài cây trồng tại các dạng lập địa Sinh trưởng đường kính Sinh trưởng chiều cao Loài cây Lập địa 1.3 vn vn D 1.3 ∆D H vn ∆H SH SD1.3 (%) (cm) (cm/năm) (m) (m/năm) (%) Lim xanh LĐB 8,95 1,49 20,15 4,74 0,79 20,38 LĐC 7,23 1,2 21,59 3,61 0,6 26,22 Trám trắng LĐB 11,2 1,87 16,14 4,78 0,79 18,53 LĐC 10,44 1,74 18,55 4,49 0,75 17,58 * Chú thích: LĐB là lập địa B, LĐC là Lập địa C Nguồn: Số liệu điều tra, 2016 50 Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 Bảng 10. Ảnh hưởng của các nhóm dạng lập địa đến chất lượng cây trồng Chất lượng cây trồng (%) Loài cây Công thức Tỷ lệ khép tán (%) Tốt Trung bình Xấu LĐ B 43,2 36,6 20,2 84 Lim xanh LĐ C 32,2 32,5 35,3 86 LĐ B 56,1 32,1 11,8 83 Trám trắng LĐ C 53,1 34,3 12,6 81 * Chú thích: LĐB là lập địa B, LĐC là lập địa C Nguồn: Số liệu điều tra, 2016 Kết quả đánh giá ảnh hưởng của các nhóm dạng lập địa tới chất lượng cây trồng được thể hiện tại bảng 10. Qua bảng cho thấy rằng chất lượng cây trồng trên các nhóm dạng lập địa có sự khác nhau, ở lập địa B cả hai loài Lim xanh và Trám trắng có tỷ lệ cây tốt (43,2% và 56,1%) cao hơn ở lập địa C (32,2 và 53,1%). So sánh giữa Lim xanh và Trám trắng cho thấy Lim xanh có tỷ lệ cây xấu tại các dạng lập địa B (20,2%) và C (35,3%) đều cao hơn Trám trắng tại lập địa B (11,8%) và lập địa C (12,6%). Tuy nhiên sự chênh lệch nhau giữa các tỷ lệ của loài Trám tráng ở các nhóm lập địa là không lớn. Khép tán cây rừng là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hình thành rừng, nó có thể tăng sức đề kháng với các nhân tố môi trường bất lợi, giảm bớt được sự cạnh tranh cỏ dại, giữ được tính ổn định quần xã thực vật, tăng cường tác dụng bảo vệ đất rừng. Trong quá trình trồng rừng, chăm sóc rừng nếu rừng khép tán sớm hoặc không khép tán trong thời kỳ dài về cơ bản sẽ làm mất đi khả năng hình thành rừng, nên phải tăng mật độ trồng rừng ở mức độ cần thiết để xúc tiến hình thành rừng và khép tán sớm [3]. Tỷ lệ khép tán của hai loài Lim xanh và Trám trắng đều đạt mức cao, dao động từ 84–86% đối với Lim xanh và 81–83% đối với Trám trắng. Như vậy, đánh giá tỷ lệ sống và các chỉ tiêu sinh trưởng của hai loài Lim xanh và Trám trắng tại các dạng lập địa khác nhau cho thấy đối với các dạng lập địa khác nhau thì chất lượng cây trồng có sự sai khác nhau. Cây Lim xanh và cây Trám trắng thích hợp hơn với dạng lập địa B. Đánh giá tình hình thảm thực vật dưới tán rừng Nghiên cứu lớp cây bụi thảm tươi dưới tán rừng để biết được mức độ ảnh hưởng của nó đến quá trình sinh trưởng của các loài cây trong khu vực. Cây bụi thảm tươi là thành phần quan trọng tham gia vào quần xã thực vật rừng, là nơi trú ngụ của chim chóc, các loài côn trùng có ích, có khả năng bảo vệ và làm giàu đất, làm giàu nguồn nước và hạn chế sự phát triển của cỏ dại Thông qua việc trả lại cành khô, lá rụng phân giải làm cho đất tơi xốp, tăng độ phì cho đất. 51 Trần Trung Thành và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 Bảng 11. Kết quả điều tra cây bụi, thảm tươi dưới tán rừng trồng dạng lập địa C Loài Loài cây chủ yếu Độ tàn che (%) Chất lượng HTB (m) Lim Cỏ tranh, Mua, Sim, Sầm sì, Ba bét, 70,60 Trung bình 1,13 xanh Trinh nữ, Cỏ xước... Thẩu tấu, Cỏ tranh, Bồ cu vẽ, Bục bục, Trám Cựa gà, Củ cam, Màng tang, Cỏ 60,30 Trung bình 0,98 trắng xước Cỏ lào, Dương xỉ, Mẫu đơn, Ba gạc, Huỷnh 75,57 Trung bình 1,32 Chủ ké Nguồn: Số liệu điều tra, 2016 Bên cạnh đó, nó cũng có những mặt tiêu cực như: Sự cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng, nước gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển cây rừng. Tỷ lệ che phủ của thảm tươi là mức độ che kín của tán cây bụi, thảm tươi theo phương thẳng đứng trên một đơn vị diện tích rừng được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm. Kết quả điều tra đánh giá tình hình cây bụi thảm tươi dưới tán rừng tại dạng lập địa C, công thức xử lý thực bì theo băng (CT2) được tổng hợp tại bảng 11. Số liệu trong bảng 11 cho thấy: Thành phần cây bụi, thảm tươi ở đây kém đa dạng, chủ yếu là: Cỏ tranh, Mua, Sim, Trinh Nữ, Thẩu tấu Chiều cao bình quân lớp cây bụi thảm tươi của mô hình rừng trồng tuổi 6 từ 0,98–1,32m, với độ tàn che từ 60,3–75,57%. Qua điều tra quan sát thực tế cho thấy lớp cây bụi thảm tươi tại khu vực nghiên cứu khá rậm rạp, có nơi chiều cao lớp cây bụi thảm tươi tới 2m, điều này đã kìm hãm sinh trưởng của cây bản địa đặc biệt là loài Lim xanh trong giai đoạn đầu. Nhìn chung tầng cây bụi thảm tươi có chiều cao trung bình thấp hơn chiều cao tầng cây bản địa, với độ tàn che >50% nên không có cạnh tranh về ánh sáng với tầng cây bản địa ở tuổi 6 mà chỉ cạnh tranh về dinh dưỡng, nước, khoáng có tác dụng chống xói mòn, bảo vệ đất. Vì vậy khi tiến hành chăm sóc tầng cây bản địa nhất thiết phải phát dọn dây leo, bụi rậm để giảm sự cạnh tranh đó tạo không gian dinh dưỡng tốt nhất cho cây bản địa phát triển. 4 Kết luận Các loài cây bản địa chủ yếu được trồng và khoanh nuôi tái sinh trên địa bàn 3 huyện Quảng Ninh, Minh Hóa và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình là Lim xanh, Trám trắng, Huỷnhtổng diện tích đạt 3.537 ha, trong đó khoanh nuôi đạt 2.503 ha và trồng mới đạt 1.034 ha với sự tham gia của 2.202 hộ gia đình. Tỷ lệ sống của các loài đạt khá cao, trên 82 %, loài có sinh trưởng đường kính nhanh nhất là Trám trắng với lượng tăng trưởng là 11,68 cm và loài sinh trưởng thấp nhất là Lim xanh đạt 8,73 cm; Lượng tăng trưởng bình quân tới tuổi 6 về đường kính của các loài cây 52 Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 dao động từ 1,46–1,95 cm/năm; Trong đó đạt giá trị lớn nhất ở loài Trám trắng là 1,95 cm/năm và thấp nhất là Lim xanh đạt 1,46 cm/năm. Biện pháp xử lý thực bì có ảnh hưởng rõ rệt tới sinh trưởng chiều cao và đường kính ngang ngực của các loài Lim xanh và Trám trắng. Công thức xử lý thực bì phù hợp là xử lý thực bì theo băng. Tùy vào từng thời điểm để có thể có các biện pháp tác động tới thực bì khác nhau nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Tỷ lệ sống và các chỉ tiêu sinh trưởng của hai loài Lim xanh và Trám trắng tại các dạng lập địa khác nhau cho thấy đối với các dạng lập địa khác nhau thì chất lượng cây trồng có sự sai khác nhau. Cây Lim xanh và cây Trám trắng thích hợp hơn với dạng lập địa B. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Nông nghiệp & PTNT, (2019), Quyết định số 911/QĐ-BNN-TCLN về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2018. 2. Dự án khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng, (2016), Báo cáo kết quả điều tra lập địa, trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng 2010–2016, hợp phần KfW, 120. 3. Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế và Vũ Tấn Phương, (2005), Hệ thống đánh giá đất lâm nghiệp Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 116. 4. Hoàng Văn Thắng, (2007), Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng rừng hỗn loài cây lá rộng bản địa cung cấp gỗ lớn ở Ngọc Lặc - Thanh Hóa và Cầu Hai - Phú Thọ, Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm Nghiệp, Xuân Mai, Hà Tây. 5. Nguyễn Hải Tuất, Nguyễn Trọng Bình, (2005), Khai thác và sử dụng SPSS để xử lý số liệu nghiên cứu trong lâm nghiệp, Nxb. Nông nghiệp Hà Nội, 203. 6. Nguyễn Hữu Vĩnh, Ngô Quang Đê, Phạm Xuân Quảng, (1986), Trồng rừng, Giáo trình Đại học Lâm nghiệp, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Nguyễn Văn Khánh, (1996), Nghiên cứu phân vùng lập địa lâm nghiệp Việt Nam, Luận án tiến sĩ khoa học Nông nghiệp, Trường đại học Lâm nghiệp, Hà Nội. 8. Nguyễn Xuân Quát, (1996), Vấn đề trồng cây bản địa, Thông tin khoa học kỹ thuật và kinh tế lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 11–12. 9. Phạm Xuân Hoàn, Bùi Thế Đồi, Phạm Văn Điển, (2011), Kỹ thuật lâm sinh nâng cao, Giáo trình đại học lâm nghiệp, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 152tr. 10. Trần Quốc Hoàn, (2014), Nghiên cứu phân vùng lập địa phục vụ cho sản xuất lâm nghiệp tại tỉnh Bình Phước, Luận án tiến sỹ Lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm nghiệp, Xuân Mai, Hà Nội. 11. Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), (2002), Sử dụng cây bản địa vào trồng rừng ở Việt Nam, Nxb. Nông Nghiệp. 53 Trần Trung Thành và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 12. Võ Đại Hải, (1996), Góp phần tìm chọn cây bản địa chất lượng cao dùng để trồng rừng ở Việt Nam, Thông tin khoa học lâm nghiệp, 7–10. 13. Forestry Department Peninsular Malaysia, Perak State Forestry Department, Japan Interna- tional Cooperation Agency, (1999), Silviculture Manual for Multi-Storied Forest Management. 54
File đính kèm:
- danh_gia_tinh_hinh_sinh_truong_cua_cac_loai_cay_ban_dia_theo.pdf