Đánh giá thực hiện vai trò của DMO từ quan điểm của các bên liên quan: Nghiên cứu khám phá tại điểm đến Đà Nẵng
TÓM TẮT
Tổ chức quản lý điểm đến (DMO) là kết quả của một cộng đồng du lịch có tổ chức. Các DMO ban
đầu chủ yếu được định hướng vào hoạt động tiếp thị và ban hành chính sách. Để đạt được năng
lực cạnh tranh lâu dài và bền vững của điểm đến đòi hỏi một định hướng rộng hơn là bán hàng và
tiếp thị. Khó khăn ngày càng tăng để đạt được khả năng cạnh tranh của điểm đến đòi hỏi các
DMO phải chủ động tập trung vào việc quản lý các tài nguyên, văn hóa xã hội và môi trường của
điểm đến, phải chịu trách nhiệm về đổi mới và phát triển điểm đến du lịch. Nghiên cứu này khám
phá về các vai trò của DMO theo quan điểm của các bên liên quan ở điểm đến Đà Nẵng. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng trong khi các hoạt động thuộc chức năng tiếp thị điểm đến ra bên ngoài
được chú trọng thực hiện thì chức năng quản lý nội bộ điểm đến còn nhận chưa đầy đủ và nhiều
hoạt động cần thiết chưa quan tâm thực hiện. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của điểm đến.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá thực hiện vai trò của DMO từ quan điểm của các bên liên quan: Nghiên cứu khám phá tại điểm đến Đà Nẵng
ghiên cứu: Kết quả nghiên cứu cho thấy mười hoạt động đứng đầu được nhiều nhất các bên liên quan cho rằng các DMO ở Đà Nẵng đã thể hiện vai trò của họ, biểu thị ở bảng 1 như sau: Bảng 1: Mười hoạt động hàng đầu về vai trò được DMO thực hiện nhiều nhất theo quan điểm các bên liên quan STT Hoạt động 1 Xúc tiến, quảng bá điểm đến 2 Tham gia hội chợ thương mại 3 Tổ chức lễ hội, sự kiện 4 Chương trình kích cầu du lịch 5 Huy động nguồn lực xúc tiến du lịch 6 Qui hoạch phát triển du lịch 7 Thu hút đầu tư du lịch 8 Phát triển sản phẩm du lịch của điểm đến 9 Quản lý và cung cấp thông tin cho du khách 10 Quản lý môi trưởng Nguồn: Dữ liệu thu thập từ nghiên cứu tại điểm đến Đà Nẵng Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức của các bên liên quan về vai trò của DMO đã và đang thực hiện trong thời gian qua tại điểm đến Đà Nẵng trước tiên tập trung chính vào các hoạt động: Xúc tiến, quảng bá điểm đến; Tổ chức lễ hội, sự kiện; Tham gia triển lãm thương mại; Chương trình kích cầu du lịch; Huy động nguồn lực xúc tiến du lịch. Đây là những hoạt động liên quan đến vai trò tiếp thị cho điểm đến. Như vậy các bên liên quan nhận thức lớn hơn về vai trò của các cơ quan quản lý điểm đến mạnh nhất là liên quan đến việc thực hiện chức năng marketing cho điểm đến. Đối với các hoạt động động thực hiện vai trò tiếp thị điểm đến Đà Nẵng, các bên liên quan đã cho rằng các DMO ở Đà Nẵng đã có rất nhiều nỗ lực. Về công tác xúc tiến, quảng bá và tham gia hội chợ: hằng năm Sở du lịch đã xây dựng kế hoạch về công tác xúc tiến thị trường quốc tế; thị trường nội địa và các hoạt động xúc tiến tại chỗ. Các hoạt động xúc tiến, quảng bá ở thị trường nội địa và tại chỗ thường là tham gia hội chợ như hội chợ VITM Hà Nội, ITE thành phố Hồ Chí Minh; tổ chức hội nghị; triển khai chương trình quảng bá tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; hội nghị đầu tư du lịch, đón đoàn famtrip, presstrip trong nước. Các hoạt động xúc tiến, quảng bá thị trường quốc tế bao gồm tham gia hội chợ quốc tế tại Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, Úc; tổ chức chương TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 62 trình giới thiệu du lịch Đà Nẵng tại Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hongkong, Philipin, Malaysia; tổ chức đón đoàn famtrip, presstrip quốc tế đến Đà Nẵng; xúc tiến đường bay quốc tế; bổ nhiệm đại diện du lịch Đà Nẵng ở nước ngoài. Các kế hoạch sẽ dự kiến cụ thể nội dung thực hiện, đơn vị chủ trì và đơn vị phối hợp để triển khai. Về tổ chức lễ hội, sự kiện du lịch: Hàng năm kế hoạch về các lễ hội, sự kiện được sở xây dựng về nội dung thực hiện, thời gian và địa điểm triển khai, xác định dơn vị chủ trì, các đơn vị phối hợp. Các lễ hội và sự kiện như là lễ hội pháo hoa, lễ hội ẩm thực quốc tế, lễ hội Noel, lễ hội bia B’estival, Quán Thế Âm, lễ hội cầu ngư, lễ hội làng Túy Loan, hội thi món ngon Đà Thành, khai trương mùa du lịch biển, thi nhảy flashmob, Carnival đường phố, Đà Nẵng - điểm hẹn mùa hè v.v. Truyền thông du lịch: Gần đây trong hoạt động tiếp thị, trung tâm xúc tiến du lịch Đà Nẵng cũng đã tăng cường truyền thông du lịch qua các kênh báo chí, truyền hình, đặc biệt là quảng bá trực tuyến qua cổng thông tin di lịch Đà Nẵng; chạy quảng cáo ứng dụng du lịch DanangFantsticity trên thiết bị di động dành cho du khách; qua các trang mạng xã hội Facebook, Instagram, Youtube, TripAdvisor, sử dụng Email-marketing, phát triển ứng dụng chatbot vào du lịch. Tuy nhiên, việc xúc tiến quảng bá ra nước ngoài vẫn hạn chế, vẫn chưa đảm bảo sự nhất quán về hình ảnh của điểm đến trong quảng bá. Huy động nguồn lực cho tiếp thị quảng bá điểm đến: Để có nguồn lực cho tiếp thị quảng bá điểm đến, các bên liên quan đã mô tả rằng Đà Nẵng đã sử dụng chính sách xã hội hóa bởi vì nguồn từ ngân sách rất eo hẹp. Huy động nguồn lực cho các hoạt động xúc tiến là vai trò được DMO tại Đà Nẵng thực hiện. Để tổ chức những hoạt động, sự kiện lớn, tầm cỡ qui mô cả điểm đến và do đó cần huy động nhiều nguồn lực trong cộng đồng doanh nghiệp thì thường là thông qua Hiệp hội. Những hoạt động nhỏ, hoặc là những hoạt động gắn với lợi thế của từng doanh nghiệp thì doanh nghiệp phối hợp trực tiếp với Sở du lịch. Doanh nghiệp đề xuất cụ thể một chương trình xúc tiến và họ phối hợp chỉ với Sở mà không qua Hiệp hội. Tuy nhiên việc quảng bá cho du lịch Đà Nẵng cũng đang được thực hiện theo chính sách riêng của một số tập đoàn. Những công ty này ngân sách lớn và họ chủ động theo chiến lược riêng của họ. DMO chưa thể hiện được vai trò hợp tác với khu vực tư nhân trong xúc tiến theo mục tiêu chung về hình ảnh cho tổng thể điểm đến Đà Nẵng. Sau các hoạt động liên quan đến vai trò marketing của DMO Đà Nẵng cho điểm đến nói trên thì các hoạt động được nhắc đến nhiều hơn tiếp theo bao gồm hoạch phát triển du lịch; thu hút đầu tư phát triển du lịch; phát triển sản phẩm du lịch của điểm đến; quản lý và cung cấp thông tin cho du khách; quản lý môi trưởng. Đây là những hoạt động liên quan đến thực hiện vai trò quản lý nội bộ điểm đến. Về qui hoạch phát triển du lịch: các DMO của thành phố chịu trách nhiệm hoàn thiện qui hoạch tổng thể, triển khai lập kế hoạch trung và dài hạn, đang thuê đơn vị tư vấn quốc tế có năng lực tham gia thực hiện quy hoạch phát triển du lịch. DMO thực hiện xây dựng đề án cơ cấu lại ngành du lịch; bãi đỗ xe dành cho xe du lịch, điểm đến trên các tuyến du lịch đường thủy nội địa; các bãi biển du lịch; khu vui chơi giải trí, trung tâm mua sắm, chợ đêm qui mô lớn, công viên văn hóa. Tuy nhiên, hiện nay tầm nhìn và chiến lược cho phát triển du lịch, định vị của điểm đến vẫn chưa các DMO xác định, các dự án chậm triển khai, không có chính sách ưu đãi cụ thể theo định hướng phát triển chung. Điều này đã dẫn đến thông điệp truyền thông lộn xộn, sản phẩm du lịch được phát triển thiếu định hướng, kiểm soát. Việc qui hoạch TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(04) - 2020 63 không phù hợp với sự phát triển nhanh của ngành kinh doanh du lịch nên quá tải về cơ sở hạ tầng và nhân lực Thu hút đầu tư phát triển du lịch: là hoạt động mà chính quyền thành phố quan tâm bằng cách sửa đổi, bổ sung các chính sách phù hợp đê thu hút được các dự án của các nhà đầu tư trong nước, các dự án FDI về du lịch, có được các nhà đầu tư chiến lược về các sản phẩm du lịch chất lượng cao, tạo thương hiệu mạnh cho điểm đến Đà Nẵng. Tuy nhiên, phát triển kinh doanh của các nhà đầu tư lớn chưa gắn kết với mục tiêu phát triển thành phố do sự phối hợp để thực hiện sự định vị và quảng bá hình ảnh điểm đến chưa đạt được. Phát triển sản phẩm du lịch của điểm đến: Các DMO tại Đà Nẵng thực hiện tổ chức các cuộc thi phát triển thêm sản phẩm mới về du lịch để bổ sung thêm các sản phẩm du lịch hiện có phục vụ du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài. Họ đưa ra định hướng sản phẩm được ưu tiên phát triển, cụ thể là du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp, du lịch công vụ, thể thao giải trí biển, mua sắm, ẩm thực, giải trí. DMO cũng đưa ra định hướng phát triển sản phẩm du lịch văn hóa, sự kiện, lễ hội, sản phẩm du lịch sinh thái, đường sông, làng nghề, du lịch cộng đồng cùng với các sản phẩm du lịch bổ trợ. Tuy nhiên các định hướng này chưa có những kế hoạch cụ thể và chưa tích hợp để đáp ứng theo nhu cầu trải nghiệm của du khách bởi chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về những nhóm khách hàng mục tiêu của điểm đến. Do đó sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, đơn điệu, đặc biệt để phục vụ du khách quốc tế. Quản lý và cung cấp thông tin cho du khách: DMO đã thành lập trung tâm Hỗ trợ Du khách trong thành phố, các quầy thông tin hỗ trợ du khách tại Sân bay Quốc tế Đà Nẵng nhằm hỗ trợ hết mình cho du khách khi đến với thành phố, tạo nên môi trường du lịch thân thiện an toàn tại Đà Nẵng. Các cơ quan chức năng thực hiện cung cấp các dịch vụ về quản lý xuất nhập cảnh tại cửa khẩu, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn về phương tiện vận chuyển, an toàn vệ sinh thực phẩm cho du khách. Về công tác quản lý môi trường: DMO ngày càng thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến việc triển khai nguồn lực để thực hiện công tác quản lý môi trường du lịch, đảm bảo an ninh, an toàn cho du khách. Triển khai các biện pháp để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường tại những điểm quan trọng trong trải nghiệm của du khách. Tuy nhiên vì sự qui hoạch không phù hợp với sự tăng trưởng nhanh chóng hệ thống khách sạn, nhà hàng, lượng du khách đến nên tình trạng ô nhiễm môi trường biển do không kiểm soát nước xả thải đã xảy ra, nguy cơ ô nhiễm môi trường ngày càng cao, xử lý rác thải từ du lịch ngày càng quá tải. Ngoài mười hoạt động hàng đầu được nhắc đến nhiều thể hiện nổi trội đã bàn đến ở trên thì các bên liên quan cũng có nhắc đến một số các hoạt động khác về vai trò của DMO nhưng có tính chất thiểu số. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch cũng đã được nhắc đến với nội dung là xây dựng kế hoạch triển khai đề án tăng cường năng lực cho cơ sở đào và phát triển nguồn nhân lực cho các cơ sở đào tạo nghề du lịch, chuẩn hóa các chương trình đào tạo nghề phù hợp theo các Bộ tiêu chuẩn nghề Việt Nam, Asean). Cung cấp thông tin về ngành du lịch cũng nhưng chủ yếu là với các số liệu thống kê về các lĩnh vực kinh doanh trong ngành này, trong khi đó các thông tin chuyên sâu về thị trường khách du lịch mặc dầu rất quan trọng nhưng lại rất thiếu. 5. Kết luận và thảo luận Nghiên cứu này bàn đến vai trò của DMO được nhận thức bởi các bên liên quan tại điểm đến du lịch Đà Nẵng. Kết quả nghiên TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 64 cứu đã cho thấy các hoạt động của DMO tại Đà Nẵng không chỉ thực hiện vai trò marketing điểm đến mà còn cả bao gồm quản lý, phát triển nội bộ điểm đến. Điều này là tương tự như kết quả của nhiều nghiên cứu về vai trò của DMO, cho rằng các tổ chức đã dịch chuyển từ marketing điểm đến sang quản lý điểm đến (Bindi & Neha, 2014; Presenza & cs, 2005, Adina & Monica, 2016). Tuy nhiên, vai trò của DMO tại Đà Nẵng hiện nay đang thực hiện tập trung và đạt kết quả rõ nét hơn vào các hoạt động marketing so với quản lý nội bộ điểm đến. Đối với vai trò marketing điểm đến, việc thực hiện của DMO thường bắt đầu với việc lập kế hoạch hàng năm đối với xúc tiến, quảng bá thị trường quốc tế, thị trường nội địa và tại chỗ với các loại hình xúc tiến quảng bá khác nhau. Tuy nhiên, do chưa có những quyết định có tính chiến lược về định vị hình ảnh điểm đến, nhận diện thương hiệu điểm đến trên cơ sở nghiên cứu, dự báo thị trường, hiểu biết đầy đủ về khách hàng mục tiêu nên các kế hoạch quảng bá và xúc tiến vẫn còn mang tính ngắn hạn, manh mún, chưa xác định rõ mục tiêu và thể hiện sự gắn kết để hướng đến giúp điểm đến để tạo lập hình ảnh thương hiệu điểm đến và lợi thế cạnh tranh bền vững trên thị trường mục tiêu. Ngoài ra do ngân sách nhà nước cho thực hiện nhiệm vụ này luôn hạn chế nên cơ chế xã hội hóa huy động nguồn lực từ tư nhân đã dẫn đến các đơn vị tư nhân lớn thực hiện chiến lược phát triển riêng của họ, không tạo nên được sự tích hợp theo một định hướng chung của tổng thể điểm đến. Đối với quản lý nội bộ điểm đến, các bên liên quan đã đánh giá các hoạt động chủ yếu liên quan đến vai trò của DMO là hoạch phát triển du lịch; thu hút đầu tư phát triển du lịch; phát triển sản phẩm du lịch của điểm đến; quản lý và cung cấp thông tin cho du khách; quản lý môi trường. Tuy nhiên, việc hoạch định phát triển du lịch không phải bắt đầu từ xác định rõ tầm nhìn và chiến lược của điểm đến, định vị để có lợi thế cạnh tranh vượt trội, sản phẩm du lịch vẫn chưa được phát triển hợp lý, đặc biệt đối với khách quốc tế. Mặc dầu vai trò phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch; quản lý môi trưởng đã được các DMO chú trọng triển khai nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển với tốc độ nhanh của du lịch Đà Nẵng. Tóm lại DMO tại điểm đến Đà Nẵng đã thực hiện được những vai trò nhất định trong marketing và quản lý điểm đến để phát triển ngành du lịch nhưng chưa đầy đủ, các vai trò đã thực hiện thì vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy DMO cần xem xét thưc hiện đầy đủ tất cả các chức năng để đảm bảo cho sự phát triển du lịch nhằm đạt được tính bền vững. Điều quan trọng khác là để thực hiện tốt các vai trò của mình, các DMO cần hợp tác với tất cả các bên liên quan một cách hiệu quả. Ngoài ra để có giải pháp cho việc thực hiện các vai trò của DMO, nghiên cứu trong tương lai cần đo lường hiệu suất của việc thực hiện vai trò hiện tại của các DMO. TÀI LIỆU THAM KHẢO Adina Letiția NEGRUȘA, Monica Maria COROȘ, 2016, „ Destination Management Organizations’ (DMOs’) Roles and Performance – Literature Review”, in Proceeding. The 2nd International Scientific Conference SAMRO 2016 Ammirato et al., Tourism Destination Management: A Collaborative Approach, Conference Paper in IFIP Advances in Information and Communication Technology, 2014 TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(04) - 2020 65 Bieger, T. (2005). Management von Destinationen (6th Ed.) [Destination Management]. München: OldenbourgHowie, F. (2003). Managing the tourist destination: A practical interactive guide. Oxford: Cengage Learning EMEA Tourism. Bindi Varghese and Neha I. J.P, International Journal of Multidisciplinary Research, Vol.4 (12), 2014 Buckley, A Framework for Ecotourism, Annals of Tourism Research, Vol. 21, No. 3, pp. 661-669, 1994 Buhalis Marketing the competitive destination of the future, 2000, Tourism Management, Volume 21, Issue 1, 2000, Pages 97-116 Garrod et al., Destination collaboration: A critical review of theoretical approaches to a multi-dimensional phenomenon, Journal of Destination Marketing & Management, Vol. 1, Issues 1–2, November 2012, Pages 10-26 Howie, Managing the Tourist Destination, Cengage Learning EMEA, 2003 Nguyễn Thị Linh Giang, Phát triển du lịch bền vững tại thành phố Đà Nẵng, 2019, https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/10/10/phat-trien-du-lich-ben-vung-tai-thanh-pho-da- nang/ Normann and Ramirez, From value chain to value constellation: Designing interactive strategy, Harvard business review, 1993. Morrison, A.M. 2012. Marketing and Managing Tourism Destinations. London: Routledge. Presenza, A., Sheehan, L., & Ritchie, J. R. B. (2005).Towards a model of the roles and activities of destination management organizations. Unpublished manuscript, Retrieved from _destin ation_management_organizations Roxas and Chadee, Effects of formal institutions on the performance of the tourism sector in the Philippines: The mediating role of entrepreneurial orientation, Tourism Management, 2013 UNWTO, A Practical Guide to Tourism Destination Management, eISBN: 978-92-844- 1243-3, 2007
File đính kèm:
- danh_gia_thuc_hien_vai_tro_cua_dmo_tu_quan_diem_cua_cac_ben.pdf