Đánh giá hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội
Trong bối cảnh hoàn thiện thể chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt
Nam đã và đang nỗ lực pháp điển hóa hàng
loạt các chính sách kinh tế, xã hội, môi
trường, v.v Trong lĩnh vực Lao động và
Xã hội, Bộ Lao động-Thương binh và Xã
hội (LĐ-TBXH) được Quốc hội và Chính
phủ giao chủ trì soạn thảo một số luật,
trong đó có Luật Bảo hiểm xã hội
(BHXH). Cuối năm 2006, Luật BHXH đã
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
1/1/2007.
Theo Luật BHXH, các chế độ BHXH đã
được cải tiến theo hướng công bằng hơn
giữa đóng góp và thụ hưởng. Tuy nhiên, về
cơ bản thì mô hình BHXH vẫn hoạt động
theo nguyên tắc tọa thu tọa chi (pay as you
go – PAYG) như trước đây. Chức năng và
nhiệm vụ của Cơ quan BHXH Việt Nam và
Cơ quan Quản lý Nhà nước về BHXH cũng
như các đối tác tham gia BHXH vẫn không
có nhiều thay đổi, ngoại trừ bổ sung thêm
nhiệm vụ về thực hiện chính sách BHXH tự
nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Do vậy,
tính công bằng trong tham gia và thụ hưởng
các chế độ BHXH giữa các khu vực kinh tế,
giữa các thế hệ vẫn chưa thực sự được đảm
bảo; nguy cơ mất cân đối quỹ BHXH do xu
hướng già hóa dân số vẫn hiện hữu. Ngoài
ra, trong bối cảnh thị trường lao động ngày
càng phát triển, mức độ di chuyển lao động
giữa khu vực chính thức và phi chính thức
ngày càng mạnh nên cần có các văn bản
hướng dẫn dưới Luật để đảm bảo cho người
lao động không gặp khó khăn khi chuyển từ
tham gia BHXH bắt buộc sang BHXH tự
nguyện và ngược lại. Mặt khác, BHXH tự
nguyện là một chính sách mới, hướng đến
bao phủ người lao động là nông dân, lao
động tự làm nên cũng gặp nhiều trở ngại
trong nỗ lực thu hút đối tượng tham gia do
thu nhập của một bộ phận đáng kể những
đối tượng này thường thấp và bấp bênh,
không ổn định.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội
êu thông kê ngành còn nghèo nàn và phân tổ một số chỉ tiêu không chính xác. Vì vậy, đề nghị điều chỉnh và bổ sung thêm một số chỉ tiêu về BHXH vào hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và thống kê ngành. Khuyến nghị 5. Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện bộ chỉ số cảnh báo sớm Khuyến nghị 6. Xem xét và công bố định kỳ một số chỉ tiêu BHXH ra công chúng phục vụ mục đích nghiên cứu, theo dõi và giám sát. 2.2. Mở rộng diện bao phủ của hệ thống BHXH hiện hành 2.2.1. Thực trạng Thực hiện Luật BHXH, diện bao phủ của hệ thống đã được mở rộng tới mọi người dân từ đủ 15 tuổi trở lên có nguyện vọng tham gia BHXH. Nếu không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc thì có cơ hội tham gia BHXH tự nguyện. Hiện nay, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc của khu vực hành chính sự nghiệp đã đạt gần 100% số đối tượng thuộc diện tham gia; ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 97,1%; khu vực doanh nghiệp tư nhân dù còn thấp nhưng đã có bước cải thiện đáng kể so với trước đây, đã đạt trên 50% số đối tượng thuộc diện tham gia. Về BHXH tự nguyện, sau 2 năm triển khai, có khoảng 50 ngàn người dân tham gia. Như vậy, diện bao phủ được mở rộng, vấn đề chỉ còn là nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật BHXH đối với khu vực tư nhân và thu hút người dân không thuộc diện điều chỉnh của BHXH bắt buộc thì tham gia BHXH tự nguyện. Phân tích chính sách BHXH hiện hành, dự án cho thấy ngoài vấn đề cơ chế phối hợp trong hoạt động BHXH và các chính sách phát huy năng lực của cơ quan BHXH vẫn còn bất cập thì một số nội dung của Luật BHXH cũng cần tiếp tục được sửa đổi để đáp ứng mục tiêu gia tăng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và tự nguyện. 2.2.2. Khuyến nghị chính sách Khuyến nghị 1. Đảm bảo công bằng giữa đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện Mọi đối tượng dù làm trong khu vực có quan hệ lao động hay không có quan hệ lao động thì đều là công dân có nghĩa vụ và trách nhiệm bình đẳng trước pháp luật. Do vậy, họ có quyền được đối xử công bằng trước pháp luật. Luật BHXH hiện hành vẫn còn một vài nội dung qui định chưa đảm bảo sự công bằng cho đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện theo hướng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được ưu ái hơn so với đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Chẳng hạn, mức lương hưu thấp nhất của đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bằng mức tiền lương tối thiểu chung nhưng mức lương hưu của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện thì không được đối xử như vậy trong khi số đông đối tượng tham gia BHXH tự nguyện lại dễ bị tổn thương hơn so với đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Như vậy, cần từng bước điều chỉnh các qui định hưởng chế độ hưu trí và tử tuất của Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 25/Quý IV - 2010 25 BHXH bắt buộc và tự nguyện theo hướng thống nhất, không có sự khách biệt. Đối xử công bằng, minh bạch là một biện pháp để thu hút đối tượng tham gia. Khuyến nghị 2. Cải tiến BHXH tự nguyện theo hướng tạo điều kiện để lao động trên 40 tuổi với nữ và trên 45 tuổi với nam có cơ hội được hưởng lương hưu nếu tham gia BHXH Số lao động trên 40 tuổi với nữ và trên 45 tuổi với nam chiếm trên 40% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động không thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Theo qui định của BHXH tự nguyện hiện hành, số đối tượng này không thể tham gia BHXH tự nguyện vì sẽ không đáp ứng đủ điều kiện để được hưởng lương hưu hàng tháng nếu họ tham gia. Đây là rõ ràng là một điểm yếu của chính sách BHXH tự nguyện hiện hành và điều này cũng hàm ý rằng với những qui định như hiện nay thì tối đa cũng chỉ có trên 50% số người già là có lương hưu từ BHXH. Trong số những người già không có lương hưu, nếu họ không có nguồn thu nhập đủ sống, không có chỗ dựa từ người thân thì sẽ trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong điều kiện già hóa dân số trong tương lai. Cải tiến chính sách theo hướng này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bộ phận lao động rất đông đảo này tham gia BHXH tự nguyện để có lương hưu khi về già. Khuyến nghị 3. Hỗ trợ một phần phí đóng BHXH tự nguyện cho lao động có thu nhập thấp Mức phí đóng BHXH tự nguyện hàng tháng hiện nay theo quy định bằng 18% mức tiền lương tối thiểu chung và sẽ tăng lên đến 22% vào năm 2014. Với mức phí đóng này thì những lao động mà đa phần là nông dân, lao động trong khu vực phi kết cấu có thu nhập thấp, không đủ khả năng kinh tế để tham gia BHXH. Do vậy, việc xây dựng chính sách hỗ trợ một phần phí đóng BHXH tự nguyện cho người nghèo và cận nghèo nếu tham gia BHXH là cần thiết. Chính sách này sẽ góp phần gia tăng số đối tượng tham gia BHXH, đảm bảo an sinh xã hội và giúp giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước trong tương lai do phải chi các khoản trợ cấp xã hội hàng tháng và bảo hiểm y tế cho người già nghèo không có lương hưu. 2.3. Dự báo khả năng cân đối tài chính của quỹ hưu trí 2.3.1. Thực trạng Mô hình BHXH vận hành theo nguyên lý PAYG-DB như hiện nay liệu có bền vững trong dài hạn là một câu hỏi đã được một số cơ quan nghiên cứu cứu trên cơ sở thực hiện các dự báo khả năng cân đối tài chính quỹ hưu trí theo các mô hình dự báo và kịch bản dự báo khác nhau. Nhìn chung, các kết quả dự báo đều có chung khuyến cáo rằng quỹ BHXH của Việt Nam không bền vững, sẽ thâm hụt trong tương lai. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đã thực hiện trước đây, dự án đã sử dụng “Bộ hướng dẫn mô phỏng các phương án cải cách hệ thống hưu trí” (PROST) của Ngân hàng Thế giới nhưng được điều chỉnh cho phù hợp với các điều kiện sẵn có về số liệu kinh tế, xã hội và BHXH của Việt Nam. Kết quả đầu ra của dự báo cho biết chi tiết các thông số về: Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 25/Quý IV - 2010 26 - Dân số, bao gồm cả tỷ suất sinh, cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính, hệ số phụ thuộc của dân số - Lực lượng lao động và việc làm, số người đóng và hưởng, hệ số phụ thuộc của hệ thống - Tiền lương, mức hưởng, thu nhập và chi tiêu của quỹ BHXH, mức độ cân bằng quỹ có tính đến yếu tố lợi nhuận đầu tư của quỹ - Những tác động của việc thay đổi các thông số của hệ thống đến thu nhập và chi tiêu của hệ thống, đo lường khả năng tồn tại về tài chính của quỹ, cân đối quỹ và thời gian (số năm) mà quỹ rơi vào tình trạng bị thâm hụt. Với các kịch bản khác nhau, kết quả dự báo cũng khẳng định tính không bền vững về tài chính của quỹ hưu trí trong tương lai và đề xuất một số khuyến nghị sau. 2.3.2. Khuyến nghị chính sách Khuyến nghị 1. Sử dụng phần mềm dự báo để thực hiện định kỳ các dự báo về khả năng cân đối tài chính của quĩ hưu trí ở Việt nam Một trong những kết quả quan trọng của dự án mang lại là đã xây dựng được một mô hình dự báo khả năng cân đối tài chính của quĩ hưu trí ở Việt Nam phỏng theo phền mềm dự báo PROST của Ngân hàng Thế giới. Việc sử dụng phần mềm này để định kỳ (hàng năm, 2 năm, 5 năm) thực hiện các dự báo về khả năng cân đối tài chính quĩ hưu trí là cần thiết để có các cảnh báo về tính bền vững của quĩ hưu trí trong tương lai. Khuyến nghị 2. Sử dụng các thông số dự báo làm căn cứ để điều chỉnh chính sách BHXH hiện hành nhằm giảm thiểu tình trạng thâm hụt quỹ BHXH Trên cơ sở các kết quả dự báo, thực hiện các cải cách tham số về mức đóng, công thức tính mức hưởng, tuổi nghỉ hưởng BHXH, số năm và thời gian tham gia đóng BHXH, lãi suất đầu tư, chi phí quản lý, v.v theo hướng đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng của từng đối tượng tham gia, giữa các đối tượng ở các khu vực kinh tế khác nhau tham gia và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Khuyến nghị 3. Củng cố hệ thống cơ sở dữ liệu về BHXH đầy đủ và kịp thời Kết quả dự báo không thể chính xác khi không có đầy đủ số liệu đầu vào và số liệu quá lạc hậu. Vì vậy, khi dự báo định kỳ khả năng cân đối tài chính quỹ trở thành một hoạt động thường xuyên sẽ đòi hỏi cần phải hình thành và hoàn thiện một hệ thống thống kê đầy đủ về BHXH. 2.4. Khả năng chuyển đổi mô hình BHXH hiện hành sang mô hình tài khoản cá nhân tượng trưng 2.4.1. Thực trạng Hệ thống BHXH hoạt động theo nguyên lý PAYG-DB như hiện nay không bền vững trong dài hạn, do: (1) già hóa dân số ở Việt Nam đang và sẽ diễn ra với tốc độ càng ngày càng cao nên tỷ lệ phụ thuộc của hệ thống sẽ ngày càng tăng khi mức sinh giảm (hay thế hệ lao động tương lai tăng chậm); (2) tuổi thọ dân số, đặc biệt là người về hưu, được cải thiện và tăng nhanh nên thời gian hưởng hưu trí sẽ dài hơn. Nếu tình trạng nghỉ hưu sớm vẫn phổ biến Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 25/Quý IV - 2010 27 hoặc tuổi hưu không điều chỉnh kịp với tốc độ tăng tuổi thọ của người về hưu thì chi phí cho chi trả các chế độ liên quan sẽ rất cao và không đảm bảo tính bền vững; (3) việc điều chỉnh mức hưởng như hiện nay khiến tốc độ tăng chi ngày càng lớn hơn tốc độ tăng thu (do tỷ lệ đóng thấp nhưng tỷ lệ hưởng cao; tốc độ tăng số người đóng góp thấp hơn tốc độ tăng số người hưởng). Do đó, để cân đối quỹ thì buộc phải giảm tỷ lệ thay thế (mức hưởng) và/hoặc tăng mức đóng góp. Theo tính toán, để duy trì cân bằng quỹ hưu trí thì từ nay đến năm 2045, tỷ lệ đóng phải tăng lên đến 35% vào năm 2045. 2.4.2. Khuyến nghị chính sách Khuyến nghị 1. Xác định việc chuyển đổi hệ thống BHXH theo dạng PAYG-DB như hiện nay sang mô hình tài khoản cá nhân tượng trưng NDC là cần thiết Qua nghiên cứu các mô hình BHXH hiện có trên thế giới, dự án đề xuất chuyển đổi hệ thống BHXH nước ta từ PAYG-DB sang mô hình tài khoản cá nhân tượng trưng (NDC) bởi hệ thống NDC vẫn mang điểm điểm của hệ thống PAYG và có những điểm mạnh sau: - Mức đóng và mức hưởng trong hệ thống này có mối quan hệ chặt chẽ hơn. - Hệ thống sẽ tự động điều chỉnh mức hưởng của người nghỉ hưu. Ví dụ, nếu người tham gia hệ thống nghỉ hưu sớm thì số tiền tượng trưng trong tài khoản của họ sẽ giảm xuống vì thời gian họ đóng cho hệ thống ngắn hơn; nếu người nghỉ hưu sớm có tuổi thọ dự kiến càng cao thì mức hưởng trung bình hàng năm của người đó càng thấp và ngược lại. - Việc chuyển đổi sang hệ thống tài khoản đầu tư (funded scheme) không gây ra cú sốc lớn về mặt tài chính cho nền kinh tế với chi phí chuyển đổi thấp. Trong quá trình chuyển đổi, mức hưởng của hệ thống này bao gồm hai bộ phận, đó là mức hưởng tính theo hệ thống PAYG và mức hưởng tính theo mức đóng. Theo thời gian, mức hưởng tính theo mức đóng sẽ chiếm ưu thế trong hệ thống và nó sẽ chuyển hẳn sang hệ thống tài khoản cá nhân. Ngược lại, quá trình chuyển đổi hoàn toàn từ PAYG DB sang tài khoản đầu tư sẽ làm nảy sinh hai vấn đề, đó là khoản nợ lương hưu tiềm ẩn (IPD - Implicit Pension Debt) sẽ xuất hiện và người tham gia phải chịu “tổn thất hai lần” (vừa đóng cho bản thân mình, vừa đóng cho người đang hưởng lương hưu). Hai vấn đề này tác động rất lớn đến đất nước về mặt kinh tế (gây bất ổn ngân sách nhà nước) và xã hội (bất công bằng giữa các thế hệ lao động tham gia hệ thống). - Chi phí quản lý hệ thống thấp hơn nhiều so với hệ thống tài khoản đầu tư. Vì hệ thống này chỉ ghi chép tài khoản cá nhân “tượng trưng” trên giấy tờ, chứ không phải tài khoản đầu tư của từng cá nhân tham gia, nên về mặt lý thuyết, không phải lo lắng về mức thu nhập từ đầu tư của quỹ hưu trí hoặc điều chỉnh cân bằng quỹ khi có những sai sót trong việc đóng góp của người tham gia. - Hệ thống NDC tự động điều chỉnh theo sự biến động của nền kinh tế vĩ mô. Trong hệ thống PAYG-DB, mức đóng góp phụ thuộc vào mức lương trung bình và số lượng người tham gia hệ thống. Khi mức lương trung bình không tăng như dự kiến hoặc khi lực lượng lao động có xu hướng giảm do tác động của nhiều nguyên nhân (trong đó có cả hiện tượng dân số già hoá nhanh) thì các nước áp dụng hệ thống Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 25/Quý IV - 2010 28 PAYG DB phải lựa chọn cách cắt giảm mức hưởng hoặc tăng mức đóng thì mới có thể duy trì sự cân bằng quỹ hưu trí. Ngược lại, trong hệ thống NDC, mức hưởng cuối cùng của người tham gia hệ thống được tính toán dựa trên năng suất lao động của thế hệ lao động hiện tại và quy mô của lực lượng lao động. - Hệ thống NDC có thể thu hút được cả lao động ở các khu vực khác (ngoài những người bắt buộc tham gia hệ thống), đặc biệt là khu vực tư nhân và phi chính thức. Với điều kiện thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay, việc áp dụng hệ thống NDC có tính đến sự tham gia của lao động trong các khu vực sẽ có tác động lớn và tích cực về mặt xã hội. Khuyến nghị 2. Xác định nhóm đối tượng và mức tích lũy của đối tượng sẽ chuyển sang mô hình NDC Về nguyên tắc, mô hình NDC dù ở nước nào thì cũng đều có cùng các nguyên lý vận hành. Tuy nhiên, do đặc thù lịch sử và đặc điểm hệ thống chuyển đổi là khác nhau nên ngoài các nguyên tắc chung về thiết kế: (1) công thức tính mức hưởng; (2) tỷ lệ đóng góp; (3) Chỉ số cho mức đóng góp tích lũy tại năm bất kỳ; (4) Mức lương đóng góp tại năm bất kỳ; (5) Hệ số niên khoản; (6) Tuổi về hưu tối thiểu; (7) Chỉ số hóa mức hưởng; v.v thì việc xác định các nhóm đối tượng thuộc diện chuyển đổi hay không chuyển đổi từ hệ thống cũ sang hệ thống mới là khác nhau. Dự án đề xuất các nhóm chuyển đổi và không chuyển như sau: - Những người mới bước vào thị trường lao động có thể tham gia tài khoản cá nhân; - Những người hiện đã nghỉ hưu và những đối tượng đã có thời gian tham gia hệ thống PAYG từ trước năm 1995 thì vẫn tiếp tục tham gia hệ thống PAYG-DB - Những người có thời gian tham gia hệ thống hiện hành từ năm 1995 trở lại đây thì chuyển sang NDC. Mức tích lũy của từng đối tượng thuộc nhóm này đến thời điểm chuyển đổi cần được xác định dựa trên các thông số về mức lương tháng mà họ làm căn cứ đóng trong quá khứ, lãi suất đầu tư, chi phí quản lý. Khuyến nghị 3. Cơ quan quản lý Nhà nước về BHXH và cơ quan BHXH cần thúc đẩy các nghiên cứu và xây dựng lộ trình chuyển đổi mô hình càng sớm càng tốt để giảm thiếu chi phí chuyển đổi trong tương lai 3. KẾT LUẬN Hợp phần 1 của dự án đã đề xuất một loạt các khuyến nghị chính sách để vừa đảm bảo mục tiêu công bằng giữa các đối tượng tham gia và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống BHXH hiện hành, đồng thời đề xuất cách thức chuyển đổi hệ thống BHXH hiện hành sang hệ thống NDC nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống trong dài hạn. Trên cơ sở những đề xuất đã đưa ra, các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan BHXH có thể sử dụng các đề xuất này làm căn cứ để diều chỉnh các chính sách hiện hành và xây dựng lộ trình chuyển đổi hệ thống, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, vì mục tiêu tăng cường và đảm bảo ASXH cho toàn dân trong thời kỳ mới.
File đính kèm:
- danh_gia_he_thong_chinh_sach_bao_hiem_xa_hoi.pdf