Đặc tính ''con gà đẻ trứng vàng'' trong phát triển bền vững du lịch Việt Nam
Tóm tắt
Con gà đẻ trứng vàng là một cách nói ví von về sự phát triển của du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, để đặc
tính con gà đẻ trứng vàng mang lại hiệu quả cao cho ngành Du lịch Việt Nam thì cần phải hướng du
lịch Việt Nam đến sự phát triển bền vững. Vấn đề đặt ra là cần tiến hành khai thác, phát huy các nguồn
tài nguyên du lịch một cách có kế hoạch, song song với việc bảo vệ, khôi phục chúng. Đồng thời cần
phát triển nguồn nhân lực du lịch có trình độ và năng lực chuyên môn cao, có đủ điều kiện thuận lợi
để cống hiến cho sự nghiệp phát triển du lịch. Với những gì hiện có, cộng với mục tiêu phát triển bền
vững và những chiến lược hiệu quả cụ thể, Việt Nam có quyền hy vọng sẽ sớm trở thành trung tâm du
lịch quan trọng trong khu vực, đủ sức gây ấn tượng trên khắp thế giới vì một Việt Nam phát triển bền
vững và đáng tự hào.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc tính ''con gà đẻ trứng vàng'' trong phát triển bền vững du lịch Việt Nam
eo từng giai đoạn giống như định hướng về khai thác nguồn lực tự nhiên. Khai thác phải song song với bảo tồn, khôi phục các di sản, tránh tình trạng khai thác vô tội vạ khiến cho di sản ngày càng bị tàn phá và mất đi giá trị của chúng. Các cơ sở kinh doanh du lịch cần tiến hành khai thác di sản một cách bài bản, có đầu tư, tránh việc chạy theo lợi nhuận khiến cho du khách hiểu lầm về di sản và các giá trị của chúng. Chẳng hạn, nhiều điểm du lịch ở miền Tây Nam Bộ đang khai thác đờn ca tài tử phục vụ du khách tham quan nhưng còn ở quy mô đơn sơ, biểu diễn qua loa khiến cho khách trong nước không cảm nhận được nét đẹp của di sản và du khách nước ngoài, nếu không hiểu tiếng Việt, không hiểu văn hóa Việt Nam lại càng thấy nhạt nhẽo. Họ không biết di sản đó là gì, tại sao phải đưa ra phục vụ ở đây, nó có giá trị gì đối với người Việt Nam. Chúng tôi xin đề xuất các bước cần có khi phục vụ đờn ca tài tử ở các cơ sở kinh doanh du lịch như sau: 1) Giới thiệu sơ lược về đờn ca tài tử và các giá trị văn hóa của loại hình nghệ thuật này bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài (cho khách nước ngoài, tối thiểu là bằng tiếng Anh); 2) Biểu diễn có bài bản và kèm theo lời giới thiệu ngắn gọn về các tiết mục biểu diễn để khách hiểu họ sắp được nghe cái gì, nhất là người nước ngoài; 3) Cho khách tham gia biểu diễn thử những bài bản đơn giản, đối với người nước ngoài thì chỉ cần cho họ tập làm quen với các giai điệu đơn giản. Hiện nay, ở một số điểm du lịch ở miền Tây Nam Bộ có kết hợp biểu diễn một vài bài hát nổi tiếng của các quốc gia của du khách bằng bộ nhạc cụ trong đờn ca tài tử. Đây là một sáng tạo rất hay giúp du khách gần gũi hơn với di sản. 3.3. Khai thác hiệu quả nhất nguồn nhân lực có chuyên môn và trình độ cao để phát triển du lịch, đồng thời không ngừng đào tạo, nâng cấp chất lượng của nguồn lực này Nguồn nhân lực du lịch ở đây bao gồm người quản lý, người vận hành các hoạt động du lịch và cộng đồng địa phương nơi có hoạt Số 29 (Tháng 9 - 2019)86 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA động du lịch. Đội ngũ quản lý và vận hành cần được: 1) Đào tạo trình độ chuyên môn bắt kịp với xu hướng phát triển của đất nước và thế giới; 2) Tạo lập hệ giá trị văn hóa quản lý và vận hành các hoạt động du lịch tốt đẹp cho họ; 3) Có kế hoạch đào tạo những ngoại ngữ cần thiết, tối thiểu là giao tiếp được, để nguồn lực nhân sự này phù hợp với các kế hoạch và từng loại hình kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch, phù hợp với bối cảnh phát triển ở từng địa phương có du lịch. Những người quản lý các hoạt động du lịch phải là người có tâm và có tầm, được biểu hiện thông qua các khía cạnh như: 1) Tự ý thức không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để xứng tầm quản lý, chủ động thực hiện các kế hoạch nghiên cứu thị trường để đưa ra chiến lược phát triển cụ thể cho doanh nghiệp; 2) Tránh bè phái cục bộ và lợi ích nhóm hay lợi ích cá nhân trong quá trình làm việc, tránh việc quản lý nhân sự theo cảm tính; 3) Phối hợp với doanh nghiệp du lịch để xây dựng chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, tạo điều kiện phát triển và duy trì nguồn nhân sự, nhất là nhân sự cấp cao để phục vụ cho công tác phát triển du lịch; 4) Có tư duy mở và nhạy để bắt kịp thông tin và những đổi mới của thị trường du lịch trong nước cũng như trên thế giới. Tùy vào điều kiện thực tế của các doanh nghiệp, các tổ chức du lịch ở Việt Nam mà đội ngũ quản lý và nhân viên sẽ có các phương hướng hoạt động khác nhau. Ở thời điểm mới gia nhập thị trường, có thể sẽ còn nhiều khó khăn để phát triển đội ngũ, tuy nhiên, quan trọng là từng cá nhân trong đội ngũ phải tự ý thức được vai trò và trách nhiệm trong công việc. Trách nhiệm ở đây gồm trách nhiệm với bản thân, với tổ chức, với xã hội, với đất nước trong công tác du lịch. Để khiến họ ý thức được trách nhiệm và tự nguyện tham gia vào sự phát triển du lịch thì trước hết các tổ chức, doanh nghiệp du lịch cần đảm bảo nhu cầu kinh tế tối thiểu cho họ bằng chế độ lương bổng hợp lý. Kế đến là tạo điều kiện cho họ được nâng cao tay nghề, trình độ, mở ra nhiều cơ hội thăng tiến cho những người có khả năng. Mặt khác, các nhà quản lý khi đưa ra các chiến lược phát triển du lịch cần đảm bảo sự phát triển bền vững, tránh chạy theo doanh số, lợi nhuận nhất thời. Khi có bất kỳ vấn đề gì xảy ra đối với ngành, với nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn phục vụ du lịch, thì người đầu tiên phải chịu trách nhiệm chính là đội ngũ quản lý du lịch. Ở đây, chúng tôi đưa cộng đồng địa phương vào nguồn nhân lực trong phát triển du lịch, vì thực tế từ trước đến nay họ luôn đóng vai trò rất quan trọng tại các điểm du lịch, tuyến du lịch như một bên tham gia không thể thiếu trong các hoạt động du lịch. Họ là người am hiểu nhất về tuyến điểm và địa phương du lịch, có thể hỗ trợ, tham gia vận hành các hoạt động du lịch ở địa phương. Các hoạt động tham quan, ăn uống, nghỉ ngơi của du khách ít nhiều đều phải tiếp xúc với người dân địa phương và cần đến sự tham gia của họ trong chừng mực nhất định. “Du khách sẽ có tour du lịch khám phá đúng nghĩa khi người dân địa phương chủ động tham gia, tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các tour tuyến đó” [2, tr.11]. Vì thế, nếu nhà quản lý, nhà tổ chức, nhà nghiên cứu du lịch phối hợp tốt với họ sẽ thu được nhiều kết quả tích cực ngoài mong đợi trong công tác phát triển du lịch. Tuy nhiên, nếu xu thế du lịch phát triển nhưng nhận thức và kỹ năng về du lịch của cộng đồng địa phương lại không phát triển tương xứng, chẳng hạn, người dân không biết cách làm du lịch, không biết ứng xử khi gặp du khách nhất là người nước ngoài, không biết ngoại ngữ, không biết cách tận dụng hoạt động du lịch để phát triển bản thân, cộng đồng và địa phương; môi trường du lịch như nhà nghỉ, khách sạn, quán ăn, nhà hàng, cửa hàng do người dân quản lý không phục vụ tốt cho du khách, thì sẽ là những lực cản kìm hãm sự phát triển du lịch ở địa phương nói riêng, Việt Nam nói chung. Xuất phát từ vai trò quan trọng của cộng đồng địa phương trong phát triển du lịch, chúng tôi đề xuất một vài phương án để nâng cao chất lượng của nguồn lực cộng đồng địa phương như: 1) Các bên liên quan khác, nhất là chính quyền địa phương và các doanh nghiệp du lịch cần không ngừng phối hợp với cộng 87Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA đồng dân cư địa phương; 2) Hướng dẫn người dân địa phương làm du lịch bằng cách tiến hành mở các lớp đào tạo, các buổi nói chuyện chuyên đề để nâng cao trình độ và nhận thức của họ về du lịch, thường xuyên tuyên truyền các thông tin về du lịch đến người dân; 3) Khuyến khích người dân địa phương tham gia có trách nhiệm vào du lịch, hỗ trợ các hộ dân liên quan đến hoạt động du lịch của địa phương; 4) Đào tạo nhanh về ngoại ngữ giao tiếp cho những người dân trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch; 5) Chia sẻ lợi ích công bằng cho những hộ dân tham gia vào hoạt động du lịch. Nếu làm được những điều này thì cộng đồng địa phương sẽ là kênh trực tiếp đóng góp tích cực trong sự nghiệp phát triển du lịch ở các địa phương. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chưa đề cập cụ thể đến yếu tố công nghệ mà gộp nó vào trong định hướng 3, vì nếu không có con người có trình độ cao để vận hành công nghệ hiện đại thì dù công nghệ có hiện đại thế nào cũng không thể phục vụ tốt cho du lịch Việt Nam. Hơn nữa, với những đặc thù riêng về nguồn tài nguyên của ngành cùng với điều kiện kinh tế của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở Việt Nam thì không thể đòi hỏi phải đạt được những thành tựu ứng dụng công nghệ cao như trong những ngành công nghệ, kỹ thuật, khoa học cao khác. Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi bị lạc hậu giữa bối cảnh nhiều người đang hô hào về thời đại 4.0. Chúng tôi vẫn ủng hộ các chính sách phát triển du lịch Việt Nam có sử dụng công nghệ cao, hy vọng vào một tương lai vận dụng công nghệ hiện đại vào phát triển du lịch, chẳng hạn trong kinh doanh nhà hàng - khách sạn hoặc trong hệ thống quản lý thông tin của các công ty lữ hành. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế của ngành Du lịch Việt Nam, công nghệ hiện đại vẫn chưa phải là yếu tố quyết định cho toàn bộ định hướng phát triển bền vững sắp tới của ngành. Đặc biệt là trong hầu hết các loại hình du lịch ở Việt Nam như du lịch di sản, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch tham quan, du lịch hành hương, du lịch về nguồn, thì đôi khi vận dụng công nghệ hiện đại có thể tạo ra những kết quả trái với mong đợi. Liên quan đến khía cạnh này, Ruth Benedict từng viết: “Các xã hội loài người ở khắp mọi nơi đã đưa ra sự lựa chọn trên cơ sở những thiết chế văn hóa của họ. Văn hóa này không coi trọng những giá trị vật chất; văn hóa khác lại coi nó là nền tảng của mọi khía cạnh hành vi. Trong xã hội này khoa học kỹ thuật xuất hiện thậm chí trong những khía cạnh cuộc sống cần thiết để đảm bảo sự sinh tồn; trong xã hội khác, không kém phần đơn giản, những thành tựu khoa học kỹ thuật tương tự lại là sự phức tạp và phù hợp với hoàn cảnh tốt đẹp đáng ngưỡng mộ” [5, tr.17]. Thời đại 4.0 nên được hiểu là khoảng thời gian người ta ứng dụng công nghệ hiện đại vào đời sống, mà muốn ứng dụng thì cần phải tạo ra được công nghệ, điểm này Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, hiện nay vẫn đang trong giai đoạn đầu của thời đại 4.0, Việt Nam cần nhiều nỗ lực trên mọi phương diện để có thể trở thành đất nước mà ở đó công nghệ hiện đại là phần tất yếu của cả xã hội. Kết luận Cách nói con gà đẻ trứng vàng nên được xem là động lực và là mục tiêu phát triển bền vững của ngành Du lịch Việt Nam, không nên xem nó là mục tiêu lợi nhuận cần đạt được bất chấp những mặt trái trên phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường tự nhiên. Con gà là một động vật có thể đẻ được nhiều trứng, nhưng nếu con gà đó không đủ sức khỏe, không được nuôi dưỡng tốt thì liệu nó có thể tiếp tục đẻ, hơn nữa lại là đẻ trứng vàng - quả trứng khó tìm trong hàng ngàn quả trứng bình thường. Cách ví von này nhằm hàm chỉ ngành Du lịch Việt Nam cần được phát triển bền vững thật sự trên cơ sở bảo vệ những nguồn tài nguyên sẵn có của quốc gia, xây dựng và bổ sung thêm nguồn tài nguyên mới nếu có thể. Tài nguyên càng phong phú, càng đa dạng thì việc phát triển du lịch Việt Nam sẽ càng thuận lợi. Sự phát triển du lịch Việt Nam không sợ không có được kế hoạch hay chiến lược tốt, mà chỉ sợ không có nguồn lực để vận hành, khi đó dù có chiến lược hay đến mấy cũng không thể sử dụng được, không có kết quả tốt được. Số 29 (Tháng 9 - 2019)88 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Các định hướng phát triển bền vững du lịch Việt Nam đều phải xoay quanh hai nhiệm vụ trọng tâm: khai thác đi đôi bảo vệ. Các nguồn tài nguyên du lịch cần được khai thác có định hướng rõ ràng theo từng giai đoạn, tránh tình trạng làm tổn hại đến khả năng duy trì và phục hồi của nguồn tài nguyên. Việt Nam có 54 tộc người với 6 vùng văn hóa; mỗi tộc người, mỗi vùng văn hóa đều có những tài nguyên tự nhiên và nhân văn riêng tạo nên chỉnh thể bức tranh tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng. Những người quản lý và vận hành du lịch Việt Nam, nếu biết tận dụng tốt nguồn tài nguyên này theo định hướng vừa khai thác vừa bảo vệ, có thể khiến cho du lịch Việt Nam tiến xa hơn và lâu dài trong tương lai. Điều đáng quan tâm trong quá trình phát triển bền vững du lịch Việt Nam đó là cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các bên liên quan trong tất cả các hoạt động du lịch. Việc tiến hành trao quyền phù hợp cho các bên để họ chủ động phối hợp và tham gia tích cực trong các dự án phát triển du lịch ở Việt Nam là một phương án hữu hiệu cần được thực hiện. Với tất cả nguồn tài nguyên đang có, nếu đi theo định hướng vừa khai thác vừa bảo vệ, cộng thêm đội ngũ nhân lực có tâm huyết, có trình độ và chuyên môn cao dưới đường lối, chính sách phù hợp của Nhà nước thì chắc chắn du lịch Việt Nam trong tương lai sẽ đạt được mục tiêu phát triển bền vững, có thể trở thành trung tâm du lịch của khu vực và nổi tiếng trên toàn thế giới. L.T.A (TS., Trường Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh) Tài liệu tham khảo 1. Lưu Tuấn Anh (2017), “Du lịch từ góc nhìn văn hóa”, Tạp chí Văn hóa và nguồn lực, số 11(3), tr.17-24. 2. Lưu Tuấn Anh (2018), “Cộng đồng địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ở miền Tây Nam Bộ từ lý thuyết Các bên liên quan”, in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Hội nhập quốc tế về bảo tồn - Cơ hội và thách thức cho các giá trị di sản văn hóa, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr.3-14. 3. Lưu Tuấn Anh (2019), “Vận dụng lý thuyết trò chơi trong phát triển sản phẩm du lịch từ các di sản văn hóa ở tỉnh Bình Phước”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến sản phẩm du lịch Bình Phước, lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch Bình Phước, Trường Đại học Bình Dương, Bình Dương, tr.206-223. 4. Quốc hội Việt Nam (2017), Luật Du lịch, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa- Xa-hoi/Luat-du-lich-2017-322936.aspx 5. Ruth Benedict (1934), Patterns of Culture, Houghton Mifflin company, New York. 6. Stephen P.Robbins, Timothy A.Judge (2013), Organizational behavior, Pearson Education, United States. 7. Tổng cục Du lịch (2019), “Cơ sở lưu trú du lịch giai đoạn 2000-2018”, gov.vn/index.php/items/13461 8. Tổng cục Du lịch (2019), “Doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai đoạn 2005-2018”, http:// vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13466 9. Tổng cục Du lịch (2019), “Khách du lịch nội địa giai đoạn 2000-2018”, gov.vn/index.php/items/13460 10. Tổng cục Du lịch (2019), “Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 6 và 6 tháng năm 2019”, items/29458 11. Tổng cục Du lịch (2019), “Tổng thu từ khách du lịch giai đoạn 2000-2018”, http:// vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13462 12. Khánh Trang (2018), “Thống kê du lịch có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý và hoạch định chính sách phát triển ngành”, 13. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) (1999), Địa lý du lịch, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 14. Bùi Thị Hải Yến (2007), Quy hoạch du lịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. Ngày nhận bài: 6 - 8 - 2019 Ngày phản biện, đánh giá: 26 - 8 - 2019 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019
File đính kèm:
- dac_tinh_con_ga_de_trung_vang_trong_phat_trien_ben_vung_du_l.pdf