Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay

Công ty cổ phần đang là mô hình kinh doanh rất quan trọng và đóng

góp rất lớn cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, từ thực

tiễn kinh doanh cho thấy, bên cạnh các ưu điểm nổi trội, công ty cổ phần

còn tồn tại khá nhiều hạn chế; đặc biệt là các quy định của pháp luật

điều chỉnh về loại hình công ty này đang tồn tại khá nhiều bất cập, cần

có những sửa đổi, bổ sung để công ty cổ phần phát triển tốt trong môi

trường thương mại Việt Nam.

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay trang 1

Trang 1

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay trang 2

Trang 2

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay trang 3

Trang 3

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay trang 4

Trang 4

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay trang 5

Trang 5

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay trang 6

Trang 6

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 1740
Bạn đang xem tài liệu "Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay

Công ty cổ phần trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay
4. Nếu so sánh 
công ty cổ phần với các loại hình của công ty 
đối nhân, khi các thành viên của công ty đối 
nhân phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn 
về tài sản thì chính các chủ nợ, khách hàng khi 
giao dịch sẽ luôn nhận được sự đảm bảo tốt 
nhất về tài chính mà công ty đối nhân và các 
thành viên của công ty có được. Ngược lại, 
với “các công ty có tính chất chịu trách nhiệm 
hữu hạn về tài sản thì khi xảy ra tổn thất, 
khách hàng chỉ được đảm bảo trong phạm vi 
số tài sản của công ty”15. Vì thế, chế độ trách 
nhiệm hữu hạn về tài sản của công ty cổ phần 
lại mang đến sự rủi ro, bất lợi về mặt tài chính 
cho các khách hàng và chủ nợ; và trong một 
số trường hợp, công ty cổ phần đã lợi dụng để 
kinh doanh nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm 
gây ra nhiều hậu quả bất lợi cho khách hàng. 
Thứ hai, dễ phát sinh mâu thuẫn giữa 
các cổ đông hoặc các nhóm cổ đông với 
nhau và việc quản lý cổ đông thường khó 
khăn, phức tạp
Bản chất của công ty đối vốn, về lý 
thuyết coi nhẹ vấn đề nhân thân cho thấy 
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
 39
rằng ai cũng có thể trở thành cổ đông công 
ty cổ phần sau mua cổ phần mà không cần 
có sự đồng ý của các cổ đông trong công 
ty16. Khác với công ty hợp danh, các cổ 
đông của công ty cổ phần thường không 
có sự quen biết, tin tưởng và ngoài ra, đại 
đa số không có kiến thức về kinh doanh17. 
Điều này dễ dẫn đến tình trạng, công ty cổ 
phần có quy mô lớn thì lợi ích của các cổ 
đông thường không đồng nhất và dễ gây ra 
sự mâu thuẫn, chia rẽ hoặc thậm chí các cổ 
đông lớn thường lợi dụng quyền lực, ảnh 
hưởng hay sự chi phối của họ để chèn ép 
các cổ đông thiểu số. Do vậy, những cổ 
đông này rất dễ bị thiểu số những người 
nắm quyền lãnh đạo và điều hành công ty 
lợi dụng bóc lột, thậm chí lừa đảo18. Nhiều 
trường hợp, trong công ty cổ phần tồn tại 
sự mâu thuẫn, đối kháng quyết liệt giữa các 
cổ đông hoặc các nhóm cổ đông với nhau 
và điều này làm cản trở hoạt động của công 
ty. Trên thực tế, các công ty cổ phần của 
Việt Nam hiện nay đang phát triển theo xu 
hướng của Hoa Kỳ19. Tức là, quyền lực của 
các công ty tập trung chủ yếu vào các cổ 
đông lớn và những người quản lý điều hành 
công ty (managers)20. Hơn nữa, do số lượng 
16. Maurice Cozian và Alian Viandier (1988), Tổ chức công ty, dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “Droit des 
societes: Litec”, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, 1990, tr. 70.
17. Friedrich Kubler và Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, 
sđd, tr. 45.
18. Friedrich Kubler và Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, 
sđd, tr. 45.
19. Nguyễn Vinh Hưng (2019), Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, Tạp 
chí Nghiên cứu lập pháp, số 24, tr. 26 - 27.
20. Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 50.
21. Hoàng Anh Tuấn (2009), Công ty cổ phần một cổ đông, https://luatminhkhue.vn/kien-thuc-luat-doanh-
nghiep/cong-ty-co-phan-mot-co-dong.aspx , truy cập ngày 02/10/2020.
22. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật Doanh nghiệp năm 
2005 từ một góc nhìn so sánh với Luật Công ty 2005 của CHND Trung Hoa, 
edu.vn/2009/09/10/..., truy cập ngày 02/10/2020.
23. Điểm a, khoản 1, Điều 2 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2009 (đã được sửa đổi, bổ sung các 
năm 2013 và 2014); và khoản 1, Điều 2 của Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2009 (đã được sửa đổi, bổ sung 
năm 2012 và 2014).
cổ đông thường khá lớn nên rất khó khăn để 
kiểm soát các cổ đông và không ít trường 
hợp, công ty cổ phần tồn tại cả các cổ đông 
“ảo” hay “cổ đông danh nghĩa”21, nên đến 
khi cần triệu tập, thông báo về những vấn 
đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của 
công ty cho các cổ đông thường rất phức tạp 
và khó khăn.
Thứ ba, phải chịu nhiều loại thuế 
hơn các công ty đối nhân
Nghiên cứu cho thấy, lợi thế rất lớn 
đối với các loại hình công ty đối nhân 
như công ty hợp danh chính là pháp luật 
không đánh thuế thu nhập doanh nghiệp 
đối với bản thân công ty này. Hiện nay, 
“nhiều nước không áp dụng thuế thu nhập 
công ty cho mô hình hợp danh. Nếu chọn 
hợp danh, nhà đầu tư có thể chỉ chịu thuế 
thu nhập cá nhân mà tránh bị đánh thuế 
hai lần”22. Nhưng đối với công ty cổ phần, 
theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá 
nhân và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 
của Việt Nam, cổ đông và bản thân công 
ty cổ phần đều phải chịu thuế thu nhập 
cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp23. 
Hay nói cách khác, “công ty cổ phần phải 
chịu thuế hai lần nghĩa là bản thân công 
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
40 
ty phải đóng thuế và các cổ đông cũng 
phải chịu thuế thêm một lần nữa”24. Các 
“cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ 
sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần”25. Vì 
thế, nếu chỉ xét về phương diện chịu thuế 
thì đây cũng là một hạn chế của công ty 
cổ phần.
Thứ tư, khả năng bảo mật thông tin 
kinh doanh, tài chính thấp
So với các loại hình công ty có trong 
Luật Doanh nghiệp, công ty cổ phần là 
công ty có nghĩa vụ phải cung cấp nhiều 
loại thông tin nhất. Trong đó, việc công 
khai các thông tin về tình hình hoạt động 
kinh doanh hay các nguồn thu, chi tài chính 
là nghĩa vụ bắt buộc của công ty cổ phần. 
Tuy nhiên, do số lượng cổ đông khá lớn 
nên vấn đề bảo mật thông tin sẽ rất phức 
tạp và khó khăn. Ngoài ra, đến khi niêm 
yết trên thị trường chứng khoán thì công ty 
cổ phần lại còn phải có nghĩa vụ cung cấp 
thêm các loại báo cáo tài chính đã được 
kiểm toán chặt chẽ. Nếu xét dưới góc độ 
kinh doanh thì đã làm lộ các bí mật kinh 
doanh và năng lực tài chính của công ty để 
cho các đối thủ cạnh tranh có thể nắm bắt 
hoặc khai thác.
3. Sự phù hợp giữa công ty cổ phần 
với môi trường thương mại Việt Nam 
hiện nay
Không thể phủ nhận tầm quan trọng, 
vai trò và ảnh hưởng của công ty cổ phần 
đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. 
Thực tiễn cho thấy, công ty cổ phần đã 
trở thành mô hình kinh doanh phổ biến 
nhất cho các doanh nghiệp quy mô lớn26. 
Bởi lẽ, khi doanh nghiệp kinh doanh với 
24. Friedrich Kubler và Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, 
sđd, tr. 30.
25. Nguyễn Vinh Hưng (2013), Công ty hợp vốn đơn giản trong các loại hình công ty so sánh và kiến nghị, 
Tạp chí Nghề Luật, sđd, tr. 63.
26. Phạm Duy Nghĩa (2015), Giáo trình Luật Kinh tế, sđd, tr. 161.
27. Nguyễn Thị Khế, Bùi Thị Khuyên, Luật kinh doanh, Nxb. Thống kê, 1999, tr. 195.
quy mô rất lớn thì luôn cần phải huy động 
nguồn vốn rộng rãi nên công ty cổ phần là 
loại hình công ty lý tưởng nhất. Hơn nữa, 
thông qua thị trường chứng khoán, công 
ty cổ phần có thể quảng bá rộng rãi và tốt 
hơn về hình ảnh của công ty đến với công 
chúng. Do vậy, trong giai đoạn phát triển 
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu 
rộng tại Việt Nam hiện nay, sự tồn tại của 
công ty cổ phần là phù hợp.
Tuy nhiên, cũng vì quy mô hoạt động 
của công ty cổ phần rất lớn, nên công ty 
này dường như lại không phù hợp với 
các nhà đầu tư còn non kinh nghiệm hay 
không có nhu cầu kinh doanh quá lớn 
hoặc thường xuyên phải huy động vốn. 
Hơn nữa, với đặc thù riêng, người Việt 
Nam thường coi trọng sự thân quen, tin 
tưởng khi tiến hành sản xuất, kinh doanh. 
Trước đây, đã có nghiên cứu chỉ rõ: “phù 
hợp với truyền thống của người Việt Nam 
là quan hệ họ hàng bền chặt. Với tư tưởng, 
một giọt máu đào hơn ao nước lã, những 
người họ hàng với nhau họ tin tưởng vào 
nhau hơn. Đặc biệt là trong điều kiện có ít 
vốn, họ chỉ muốn liên kết lại với nhau để 
kinh doanh chung, lấy công ty làm lãi là 
chủ yếu, do đó rất thích hợp với loại hình 
công ty đối nhân”27. Chính vì vậy, có quan 
điểm cho rằng, “cơ sở để một loại hình 
doanh nghiệp có thể phát triển tốt tại Việt 
Nam thì loại hình doanh nghiệp đó phải 
thỏa mãn các điều kiện sau (i) quy mô của 
doanh nghiệp không quá lớn nhưng lại 
có thể dễ dàng mở rộng quy mô trong dài 
hạn; (ii) giữa các thành viên của doanh 
nghiệp phải luôn tồn tại sự tin tưởng lẫn 
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
 41
nhau; (iii) doanh nghiệp phải đảm bảo sự 
an toàn về mặt pháp lý trước pháp luật, 
tạo niềm tin cho các khách hàng và cơ 
cấu tổ chức, quản trị điều hành không 
quá phức tạp”28. Vì vậy, đối với công ty 
cổ phần, khi hầu hết các cổ đông thường 
không hiểu biết về nhau thì sẽ khó khăn 
cho những người vốn đã có tư tưởng kinh 
doanh thận trọng và lại luôn đề cao sự tin 
tưởng, tín nhiệm lẫn nhau.
Bên cạnh đó, nhiều phân tích chỉ rõ môi 
trường kinh doanh của Việt Nam chưa thực 
sự chín muồi cho sự ra đời của những công 
ty lớn29. Các công ty tư nhân Việt Nam hiện 
nay về cơ bản vẫn huy động vốn trong khu 
vực kinh tế gia đình, chúng chưa có dáng 
dấp của các công ty đối vốn thật sự30; các 
doanh nghiệp ở Việt Nam phát triển nhanh 
nhưng chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp có 
quy mô vừa và nhỏ31. Do vậy, nếu các nhà 
đầu tư chỉ có nhu cầu thành lập công ty với 
quy mô vừa hoặc nhỏ và đồng thời luôn 
mong muốn giữa họ phải có mối quan hệ 
thân thiết, tin cậy thì công ty cổ phần lại 
càng không phù hợp.
4. Một số kiến nghị
Tác giả cho rằng, để công ty cổ phần 
có thể phát triển mạnh mẽ và phù hợp với 
môi trường thương mại tại Việt Nam thì 
cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, bổ sung thêm loại hình 
công ty cổ phần một cổ đông
Từ thực tiễn kinh doanh tại Việt Nam 
cho thấy, khá nhiều nhà đầu tư có nhu 
cầu thành lập công ty cổ phần nhưng chỉ 
28. Nguyễn Vinh Hưng (2015), Cần xây dựng loại hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế Việt Nam, Tạp 
chí Dân chủ và pháp luật, sđd, tr. 33.
29. Phạm Duy Nghĩa, Luật về mua bán doanh nghiệp: bình luận ngắn từ góc nhìn quản trị công ty, Tạp chí 
Nghiên cứu lập pháp số 10 (171) tháng 5/2010, tr. 47.
30. Phạm Duy Nghĩa (2015), Giáo trình Luật Kinh tế, sđd, tr. 49.
31. Tổng cục Thống kê, Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21, Nxb. Thống kê, tr. 15.
32. Friedrich Fubler, Jurgen Simon (1992), Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 44.
33. Hoàng Anh Tuấn (2009), Công ty cổ phần một cổ đông, tlđd, truy cập ngày 05/10/2020.
vì quy định phải đáp ứng đủ số lượng cổ 
đông tối thiểu (ba cổ đông) nên không 
thành lập được. Cũng có thể để đối phó 
với quy định ba cổ đông tối thiểu, các nhà 
đầu tư phải tìm cách nhờ vả những người 
thân để đứng tên cho đủ số lượng cổ đông 
tối thiểu theo quy định. Trong các trường 
hợp này, thực chất, công ty cổ phần đó 
chỉ hoạt động với một cổ đông duy nhất, 
vì các cổ đông “ảo”, cổ đông “ma” hay 
cổ đông “danh nghĩa” đó không có đóng 
góp gì trong công ty. Thậm chí, còn làm 
khó khăn, rắc rối, phức tạp cho chính 
công ty cổ phần vì về nguyên tắc, những 
quyết định quan trọng của công ty đều 
phải được bàn thảo và quyết định bởi tập 
thể cổ đông. Khác với Việt Nam, Cộng 
hòa Liên bang Đức hiện đang quy định 
loại hình công ty cổ phần một thành viên 
(Konzern) và công ty này mang lại sự 
thuận lợi rất lớn cho người chủ của nó32. 
Trên thực tế, tại Việt Nam, cũng từng có 
ý kiến cho rằng, pháp luật nên cho phép 
thành lập công ty cổ phần một cổ đông33. 
Vì vậy, tác giả cho rằng, cần nghiên cứu 
sửa đổi Luật Doanh nghiệp theo hướng 
bổ sung quy định về công ty cổ phần một 
cổ đông. 
Thứ hai, hạn chế một số lĩnh vực 
kinh doanh của công ty cổ phần
Tác giả cho rằng, các nhóm ngành, 
nghề, lĩnh vực kinh doanh như: y tế (mở 
phòng khám chữa bệnh tư nhân, cửa hàng 
bán thuốc, các vật tư ngành y tế), nhóm 
tư vấn thiết kế (xây dựng, kiến trúc, thi 
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
42 
công), hay kiểm toán, dược phẩm, hóa 
chất, các dịch vụ liên quan đến lĩnh vực 
pháp lý là những ngành, nghề không 
nên cho phép đăng ký thành lập, hoạt động 
dưới hình thức của công ty cổ phần. Bởi 
lẽ, đây đều là những ngành, nghề gây ảnh 
hưởng lớn đến xã hội, nếu doanh nghiệp 
kinh doanh các dịch vụ trên thiếu tinh 
thần trách nhiệm hay chủ quan, liều lĩnh, 
tắc trách sẽ dẫn đến những hậu quả rất lớn 
mà khó có thể sửa chữa, khắc phục. Vì 
vậy, doanh nghiệp cần phải bị ràng buộc 
trách nhiệm vô hạn về tài sản. Có ý kiến 
cho rằng, nếu để các lĩnh vực này được 
phép kinh doanh dưới hình thức công ty 
cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn 
sẽ mang lại sự chủ quan, thiếu trách nhiệm 
vì những người chủ kinh doanh được xác 
định sẽ chỉ phải chịu những hậu quả trong 
phạm vi số vốn giới hạn của họ34. Trong 
trường hợp này, “tính chịu trách nhiệm 
hữu hạn đã trở thành bức tường che chắn 
cho thành viên trước yêu cầu đòi nợ của 
các bạn hàng làm ăn với công ty Bức 
tường trách nhiệm hữu hạn giới hạn được 
rủi ro cho người kinh doanh, vì lẽ ấy, nó 
cũng có thể đẩy một phần rủi ro sang cho 
khách hàng, người làm công và các chủ 
nợ khác của công ty35. 
Chúng tôi cho rằng, cần quy định 
việc kinh doanh các lĩnh vực trên sẽ chỉ 
thuộc về các loại hình công ty có tính chất 
chịu trách nhiệm vô hạn như công ty hợp 
danh hay doanh nghiệp tư nhân. Chỉ đối 
với các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh 
không gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe 
34. Nguyễn Vinh Hưng (2016), Hoàn thiện chế định pháp luật về công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp 
năm 2014, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 88/2016, tr. 103 - 104.
35. Phạm Duy Nghĩa (2015), Giáo trình Luật Kinh tế, sđd, tr. 202 - 204.
36. Điều 17 và Điều 19, Pháp lệnh Luật sư năm 2001.
37. Khoản 4, Điều 1, Quyết định 224/QĐ-TTg ngày 19/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt đề án 
“Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
38. Điều 22, Luật Công chứng năm 2014.
của con người và an toàn xã hội, hay nói 
cách khác, không cần yêu cầu chủ doanh 
nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn thì 
mới cho phép thành lập dưới hình thức 
của công ty cổ phần. Thời gian trước đây, 
pháp luật đã từng có quy định, khi kinh 
doanh các dịch vụ pháp lý thì bắt buộc 
phải kinh doanh dưới hình thức là các 
văn phòng luật hoặc phải thành lập theo 
mô hình công ty luật hợp danh và mô 
hình này được tổ chức gần như theo mô 
hình công ty hợp danh trong Luật Doanh 
nghiệp36. Hoặc quy định hiện nay đối với 
Văn phòng Thừa phát lại, nếu do một 
Thừa phát lại thành lập thì phải được tổ 
chức và hoạt động theo loại hình doanh 
nghiệp tư nhân, còn nếu do hai Thừa phát 
lại trở lên thành lập thì sẽ tổ chức và hoạt 
động theo mô hình công ty hợp danh37. 
Hay đối với văn phòng công chứng cũng 
được tổ chức và hoạt động theo mô hình 
của công ty hợp danh38. Điều này cho 
thấy, pháp luật ngày càng quan tâm đến 
vấn đề định hướng ngành, nghề, lĩnh vực 
kinh doanh theo đặc thù riêng của từng 
loại hình công ty.
Việc quy định cụ thể các ngành, nghề, 
lĩnh vực kinh doanh dưới hình thức công ty 
cổ phần không làm hạn chế hay giảm bớt 
quyền tự do, sáng tạo trong kinh doanh. 
Bởi lẽ, chỉ với mục đích định hướng các 
ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh đi theo 
đúng trật tự, hoạt động an toàn, hiệu quả 
và để phù hợp với thế mạnh của loại hình 
công ty cổ phần  

File đính kèm:

  • pdfcong_ty_co_phan_trong_moi_truong_thuong_mai_viet_nam_hien_na.pdf