Công chứng điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang bùng nổ và tác động đến hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Theo đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào các lĩnh vực của đời sống xã hội đang trở thành một xu thế tất yếu
và mang tính toàn cầu với mục tiêu tiện lợi, nhanh chóng, giảm thời gian,
chi phí, nhân lực, việc đi lại và giảm giao dịch trực tiếp Hoạt động
công chứng cũng không nằm ngoài xu thế này. Công chứng đã và đang
từng bước ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng mạnh mẽ trong hoạt
động của mình, trong đó phải kể đến công chứng điện tử.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Công chứng điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công chứng điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
ân sự và pháp luật về giao dịch điện tử, có thể thực hiện việc ký và đóng dấu 6 Điều 12 Luật Giao dịch điện tử năm 2005. 7 Điều 24 Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Điều 8 Nghị định số 130/2018/NĐ-CP, ngày 27 tháng 9 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số. 45Số 20 (420) - T10/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT điện tử trên văn bản công chứng mà vẫn đáp ứng các quy định của Luật Công chứng. Tuy nhiên, ngay cả khi áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về giao dịch điện tử thì hành lang pháp lý cho việc thực hiện công chứng điện tử vẫn còn là vấn đề nhiều tranh luận và cần làm rõ. Luật Giao dịch điện tử không áp dụng đối với việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các bất động sản khác, văn bản về thừa kế8, căn cước công dân vẫn được cấp dưới hình thức “thẻ” vật lý9... nên người yêu cầu công chứng vẫn phải nộp hồ sơ công chứng bản giấy, CCV vẫn phải thụ lý và xử lý yêu cầu công chứng theo hồ sơ giấy. Do sản phẩm của công chứng điện tử là văn bản công chứng dưới dạng dữ liệu điện tử, trong khi chưa có quy định minh thị giá trị pháp lý của văn bản công chứng điện tử nên việc tiếp nhận và sử dụng văn bản CCĐT trong các thủ tục mà văn bản công chứng là “hồ sơ đầu vào”, như thủ tục đăng ký biến động đất đai, nhà ở, đóng thuế... là không thể thực hiện được. Ví dụ, tại Tp. Hồ Chí Minh, cho đến nay, các dịch vụ công trực tuyến liên quan đến đăng ký biến động đất đai, nhà ở đều chưa thực hiện việc nộp hồ sơ trực tuyến (mức độ 3, 4)10. Nếu chỉ triển khai CCĐT trong nội bộ ngành công chứng thì không phát huy được tác dụng, mà còn gây khó khăn cho người dân khi cần thực hiện các thủ tục tiếp theo. Thứ hai, việc xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng hiện nay chưa thật sự phục vụ cho thực hiện công chứng điện tử. Điều 62 Luật Công chứng quy định cơ sở dữ liệu công chứng bao gồm các thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng. Quy định trên hàm chứa nội dung điều chỉnh đối với “dữ liệu” (thông tin) nhiều hơn là quy trình. Do vậy, khi xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng tập trung nhiều hơn vào việc tạo lập cơ chế lưu trữ và chia sẻ dữ liệu, ít quan tâm đến việc xây dựng quy trình điện tử thay thế cho quy trình công chứng truyền thống (ngoài ra còn do pháp luật không quy định về công chứng điện tử, như đã nêu ở phần trên). Định hướng này làm cho các phần mềm dùng trong hoạt động công chứng chủ yếu mang tính chất hỗ trợ cho hoạt động công chứng, vận hành bên cạnh quy trình công chứng truyền thống và quy trình công chứng truyền thống mới là chính và có hiệu lực thi hành. Bên cạnh đó, tuy Điều 62 Luật Công chứng quy định cơ sở dữ liệu công chứng bao gồm 3 nhóm thông tin chính, trong đó có thông tin về nguồn gốc tài sản, nhưng trong thực tế, để xây dựng một cơ sở dữ liệu công chứng với đầy đủ các thông tin như quy định của Luật Công chứng hiện đang gặp nhiều khó khăn. Thứ ba, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng tại các địa phương chưa đồng đều. Hai điều kiện quan trọng để thực hiện công chứng điện tử là độ phủ sóng của Internet và nền tảng (phần mềm), trong đó Internet là điều kiện tiên quyết. Theo một bản báo cáo xếp hạng mức độ 8 Điều 1 Luật Giao dịch điện tử năm 2005. 9 Luật Căn cước công dân năm 2014, Thông tư số 61/2015/TT-BCA, ngày 16 tháng 11 năm 2015 của Bộ Công an quy định về mẫu thẻ căn cước công dân và Thông tư số 33/2018/TT-BCA, ngày 10 tháng 10 năm 2018 sửa đổi một số điều của Thông tư số 61/2015/TT-BCA. 10 https://dichvucong.hochiminhcity.gov.vn/icloudgate/version4/ps/page/bs/proc/hanhchinhcong.cpx? secrd=zxaku0SS0y0SmxJwQcmtEw3JlhIFIdwPXEjuYt+uNiVyr0XYauqrx6U8qaZRYb+dxWSXGJpKK UrIlNA8i3ipDRBgvkvlrcadXPgXt+fXBWDMBzi1sFW1jABzQ6ua6/W7apXLh5EwrVQ=. Số 20 (420) - T10/202046 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT 11 559359/. 12 https://viettimes.vn/viet-nam-dung-o-dau-tren-ban-do-internet-toc-do-cao-cua-the-gioi-297949.html. 13 https://www.internetworldstats.com/stats3.htm. phát triển Internet của 75 quốc gia trên thế giới được công bố trên tạp chí Economist năm 2017, Việt Nam đứng ở vị trí thứ 40/75 về chất lượng của hạ tầng mạng lưới Internet và mức độ sử dụng Internet, và ở vị trí thứ 42/75 về khả năng truy cập Internet, bao gồm: kỹ năng của người dân, văn hóa và các chính sách của cơ quan quản lý, do có hạn chế về sự hiểu biết về kỹ thuật số cũng như kỹ năng truy cập Internet11. Trong khi đó, theo dữ liệu nhận được từ M-Lab, một tổ chức nghiên cứu được thành lập dựa trên sự hợp tác giữa Google, đại học Princeton và Viện khoa học công nghệ mở thì tốc độ truy cập Internet của Việt Nam năm 2018 tụt một bậc so với năm 2017, bằng tốc độ trung bình của thế giới12. Theo số liệu thống kê của World Internet Users vào tháng 1 năm 2020 thì chỉ có 70,4% dân số Việt Nam sử dụng Internet13. Các đánh giá trên phản ánh thực trạng của Việt Nam là, dù tỷ lệ người dân sử dụng Internet tại các khu vực thành thị của Việt Nam hiện khá cao, song vẫn còn một lượng lớn người dân ở các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa đang thiếu hạ tầng, phương tiện và kỹ năng sử dụng Internet. Như vậy, việc triển khai công chứng điện tử sẽ gặp khó khăn ở các khu vực không phải là đô thị, trong khi đó, Luật Công chứng quy định, CCV chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, tức là người yêu cầu công chứng không thể yêu cầu CCV hành nghề tại địa phương khác công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản tại địa phương mình. Bên cạnh đó, độ phủ sóng các phần mềm dùng trong hoạt động hoạt động công chứng tại các địa phương đã có Internet cũng chưa đều khắp, nhiều nơi chưa có phần mềm. Chức năng các phần mềm cũng khác nhau, một số phần mềm cho phép xử lý hồ sơ trực tiếp, cùng lúc với việc công chứng hồ sơ giấy, một số phần mềm chỉ sử dụng để nhập thông tin sau khi đã công chứng xong... Thứ tư, tâm lý e ngại khi thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động công chứng. Việc chuyển đổi từ công chứng truyền thống sang CCĐT không chỉ đơn thuần là việc gán chữ ký và con dấu điện tử vào một văn bản công chứng hay là vấn đề tiết kiệm văn phòng phẩm cho tổ chức hành nghề công chứng. Đây là một cuộc cách mạng làm thay đổi toàn bộ cách thức thực hiện việc công chứng cũng như hình thức của văn bản công chứng, kéo theo đó là sự thay đổi của các thủ tục, quy trình có liên quan khác (như đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, đóng thuế...). Khi thực hiện công chứng điện tử, không chỉ thay đổi về quy định của pháp luật có liên quan và quy trình công chứng mà người thực hiện công chứng (tổ chức hành nghề công chứng, CCV, thư ký ...) và người yêu cầu công chứng cũng phải có những thay đổi lớn về cách tiếp cận, kỹ năng thực hiện công chứng cũng như tiếp nhận sản phẩm đầu ra của hoạt động công chứng. Kinh nghiệm từ những cải cách hoạt động công chứng như chuyển đổi sang bắt buộc sử dụng phần mềm... cho thấy, thay đổi này luôn gây ra tâm lý dè chừng, lưỡng lự, không sẵn sáng chấp nhận và sử dụng cái mới. Đây là một trở ngại lớn trong quá trình triển khai CCĐT, đặc biệt trong giai đoạn đầu, và cần sự quyết tâm các cơ quan, tổ chức có liên quan, đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp địa phương. Bên cạnh đó, tình trạng giấy tờ giả hiện 47Số 20 (420) - T10/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT nay trong hoạt động công chứng đang trở thành vấn nạn, đặc biệt là giả giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản. CCV chủ yếu sử dụng kỹ năng và kiến thức để nhận diện giấy tờ giả khi thụ lý hồ sơ công chứng. Nói cách khác, CCV phải tiếp xúc trực tiếp với giấy tờ bản giấy, sử dụng các giác quan để tìm kiếm các dấu hiệu bảo mật hoặc dấu vết giả mạo. Nếu thực hiện CCĐT mà không có thông tin về chủ sở hữu thật, về nguồn gốc tài sản từ phía cơ quan quản lý đất đai thì nguy cơ bị giả mạo là rất cao, làm ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp của CCV cũng như tính an toàn của giao dịch. Tương tự, tình trạng giả mạo người yêu cầu công chứng cũng đang ngày càng tăng, trong khi cơ sở dữ liệu công chứng chưa thể kết nối với dữ liệu dân cư nên CCV vẫn phải dựa vào việc kiểm tra giấy tờ nhân thân bản giấy để xác định tính thật, giả của giấy tờ. Đây là một nguyên nhân rất lớn gây tâm lý dè dặt khi triển khai CCĐT. Ngoài ra, theo quy định của Luật Công chứng, Văn phòng công chứng là doanh nghiệp, nên luôn có sự cân đối về chi phí và lợi nhuận. Trong khi đó, chi phí cho việc triển khai CCĐT dự kiến sẽ cao. Ở các đô thị, nơi có nhiều giao dịch, doanh thu từ hoạt động công chứng có thể bù đắp cho chi phí đầu tư, Văn phòng công chứng có thể sẵn sàng đầu tư để nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Tuy nhiên, tại các vùng có số lượng hợp đồng, giao dịch không cao, chi phí cho trang thiết bị, đường truyền... để thực hiện CCĐTsẽ là một trở ngại ảnh hưởng đến quyết tâm áp dụng công chứng điện tử của tổ chức hành nghề công chứng. 3. Kiến nghị Như đã phân tích trên đây, CCĐT là một xu thế chung trong hoạt động công chứng trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Hơn thế nữa, nhu cầu CCĐT tại Việt Nam là một nhu cầu có thật, đặc biệt với người yêu cầu công chứng ở nước ngoài, thường xuyên di chuyển hoặc muốn giảm chi phí về thời gian, chi phí và công sức đi lại... Đối với cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động công chứng và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên thì CCĐT là một công cụ hữu hiệu trong việc quản lý hoạt động công chứng, thông qua việc kiểm tra, kiểm soát các bước công chứng trong phần mềm. Để thực hiện công chứng điện tử tại Việt Nam, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp sau: Một là, xây dựng hành lang pháp lý cho CCĐT: Hành lang pháp lý cho CCĐT không nên và không thể chỉ dừng lại ờ Luật Công chứng (chủ yếu quy định về hình thức và trình tự, thủ tục thực hiện công chứng), mà cần có sự thay đổi cơ bản về giá trị và cách sử dụng văn bản công chứng điện tử với các thủ tục khác mà văn bản công chứng là một thành phần “đầu vào” (như thủ tục đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản sau khi chuyển nhượng, thủ tục nộp thuế...). Để thực hiện được điều này, tất yếu là quy định về các thủ tục hành chính và thủ tục (không phải hành chính) của tổ chức có liên quan (tổ chức tín dụng..) cũng cần thay đổi, cho phép nhận và xử lý hồ sơ điện tử. Điều này dẫn đến một thay đổi lớn trong toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là các quy định về đất đai, dân sự, nhà ở, thương mại, doanh nghiệp, thuế. Ngày 08/4/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, trong đó có quy định về yêu cầu chứng thực bản sao điện tử từ bản chính giấy tờ, tài liệu (chứng thực bản sao từ bàn chính là một trong các chức năng của CCV). Đây là một quy định mới, hết sức phù hợp của Chính phủ trong tiến trình xây dựng Chính phủ điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Tuy nhiên chứng thực từ bản chính chỉ là một thủ tục trong rất nhiều thủ tục thuộc thẩm quyền CCV. Một sự thay đổi lớn hơn trong hệ thống pháp luật là hết sức cần thiết để Việt Nam xây dựng được thể chế cho CCĐT. Số 20 (420) - T10/202048 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP THỰC TIỄN PHÁP LUẬT Hai là, xây dựng nền tảng kỹ thuật cho CCĐT: Như đã phân tích ở các phần trên, để có CCĐT, nền tảng kỹ thuật (Internet, phần mềm...) là rất quan trọng. Nền tảng kỹ thuật cho công chứng điện tử không chỉ dừng lại trong phạm vi các tổ chức hành nghề công chứng mà cần kết nối với các tổ chức khác như cơ quan đăng ký đất đai, cơ quan thuế, các tổ chức tín dụng... để trở thành một mạng lưới chia sẻ và liên kết thông tin. Bên cạnh đó, việc kết nối được dữ liệu về dân cư, bất động sản với cơ sở dữ liệu công chứng, cơ chế và hệ thống bảo mật thông tin công chứng cũng như bảo đảm an toàn cho chữ ký điện tử trên văn bản công chứng điện tử, là yếu tố then chốt để CCĐT có hiệu quả, đặc biệt trong tình hình vấn nạn giấy tờ giả, lừa đảo... như hiện nay. Với điều kiện của Việt Nam hiện nay, khi mà việc ứng dụng cũng như điều kiện để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng ở các địa phương khác nhau, thì việc xây dựng một nền tảng chung, thống nhất cho cả nước là rất khó khả thi. Do đó, cần có cơ chế khuyến khích để trước mắt các địa phương có điều kiện tốt hơn (như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh...) có thể triển khai CCĐT, ít nhất là đối với các giao dịch về bất động sản - là những giao dịch được công chứng theo thẩm quyền địa hạt- tại từng địa phương, từ đó rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình ra toàn quốc vào thời điểm thích hợp Ba là, nâng mức độ phủ sóng và sử dụng Internet trong phạm vi cả nước: Hoạt động công chứng không chỉ diễn ra ở các đô thị lớn, mà có ở tất cả các địa phương, do đó, tầm nhìn xây dựng CCĐT cần có lộ trình triển khai đến tất cả vùng, miền của Tổ quốc. Để thực hiện được điều đó, từng bước nâng cao chất lượng của hạ tầng mạng lưới Internet và mức độ sử dụng Internet cũng như khả năng truy cập Internet để tất cả người dân ở mọi khu vực khi có nhu cầu đều có thể sử dụng CCĐT cần phải được thực hiện n các cơ sở chăm sóc y tế cho người dân địa phương cũng như người lao động tại các khu công nghiệp bằng các cơ chế khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi cụ thể. Thứ năm, đẩy mạnh đầu tư nâng cao chuyên môn kỹ thuật y tế và tin học hóa; trong đó, đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, cơ sở vật chất và nhân lực cho hệ thống kiểm chuẩn-tham chiếu đảm bảo chất lượng quan trắc môi trường lao động, giám sát sức khỏe, sàng lọc, phát hiện, chẩn đoán sớm bệnh nghề nghiệp; Thứ sáu, xây dựng cơ chế, biện pháp thanh tra hiệu quả hơn với các sai phạm về y tế như tổ chức thanh tra đột xuất, phối hợp với các cơ quan có liên quan cùng tổ chức thanh kiểm tra. Thứ bảy, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về y tế trước hết là với các doanh nghiệp để doanh nghiệp chủ động thực hiện trách nhiệm của mình trước pháp luật, trước người lao động; với người lao động, nâng cao hiểu biết để tự bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của bản thân. Hiệu quả của chính sách y tế cần phải tính đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân, của người lao động. Nhà nước, các doanh nghiệp, xã hội cần đẩy mạnh đầu tư vốn, nhân lực, khoa học kỹ thuật để phát triển dịch vụ y tế, nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo giá thành hợp lý. Một chiến lược y tế hiệu quả sẽ góp phần vào xây dựng hệ thống an sinh xã hội hiệu quả, tạo động lực cho sự ổn định và phát triển của xã hội n tiếp cận dịch vụ y tế ... (Tiếp theo trang 40)
File đính kèm:
- cong_chung_dien_tu_tai_viet_nam_trong_boi_canh_cach_mang_con.pdf