Cơ chế tự chủ tại các cơ sở khám, chữa bệnh công lập - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
Cũng như trên thế giới, tại Việt Nam, y tế là lĩnh vực có tác động trực tiếp đến đời sống hằng ngày của người dân, là vấn đề không chỉ Chính phủ, Quốc hội, các cơ quan dân cử quan tâm mà còn dành được sự chú ý rất lớn từ công chúng. Chính bởi tầm quan trọng đặc biệt của y tế, các Chính phủ luôn cố gắng tạo những nguồn lực cần thiết để phát triển dịch vụ y tế đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong công tác khám, chữa bệnh tầm soát bệnh tật của người dân. Tuy nhiên, mâu thuẫn thường xảy ra trong việc phát triển dịch vụ y tế công lập đó là mong muốn thụ hưởng chất lượng khám, chữa bệnh ở mức cao trong khi nguồn lực dành cho khám, chữa bệnh luôn bị hạn chế. Nhà nước luôn tìm mọi phương cách để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao với nguồn lực có hạn. Đây cũng là vấn đề cơ quan KTNN luôn quan tâm nhằm tối ưu hóa nguồn lực hiện có. Bài viết đề cập đến cơ chế quản lý, sử dụng nguồn lực tại các bệnh viện công lập, đề cập đến ưu điểm cũng như tồn tại và hạn chế, những khó khăn vướng mắc trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công tại các cơ sở khám, chữa bệnh công lập. Từ đó, đưa ra một số khuyến nghị về cải tiến cơ chế quản lý và kiểm soát nguồn lực để khắc phục những vấn đề tồn tại của cơ chế tự chủ, góp phần nâng cao chất lượng thụ hưởng khám, chữa bệnh của người dân, đặc biệt là giúp bộ phận người không có khả năng về tài chính được tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ chế tự chủ tại các cơ sở khám, chữa bệnh công lập - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
thanh toán. Chưa nói đến việc mất cân đối thu chi này với con số lớn sẽ là gánh nặng và gây tiềm ẩn không chỉ đối với cơ sở khám, chữa bệnh mà cả đối với NSNN bới đây là các cơ sở y tế công lập và Nhà nước phải có trách nhiệm khi cơ sở không đủ sức trang trải. Cho đến nay, BHYT cũng như NSNN chưa quan tâm nhiều đến y tế dự phòng, chưa thể chi trả cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu như khám, sàng lọc, phát hiện sớm vốn đem lại hiệu quả lâu dài với chi phí bỏ ra không lớn, trong khi chi phí phòng bệnh thường nhỏ hơn nhiều lần so với chi phí chữa bệnh. Việc không thực hiện tốt chủ trương phòng bệnh hơn chữa bệnh, dẫn đến tăng chi phí khám, chữa bệnh không cần thiết, từ đó gây mất cân đối quỹ BHYT. Đây là vấn đề cần được quan tâm và cơ cấu lại mức chi ngân sách, chi từ quỹ BHYT để đảm bảo phát triển hài hòa giữa phòng bệnh với khám, chữa bệnh. Có chiến lược từ xa để giảm chi phí khám, chữa bệnh cho nhân dân, cho BHYT và cho NSNN. Thứ ba, các vấn đề tài chính khác Việc chuyển từ cơ chế “phí” sang “giá dịch vụ” là điều kiện cơ bản để thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính của các cơ sở cung ứng dịch vụ, tăng sự lựa chọn của người sử dụng dịch vụ. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh giá dịch vụ khám, chữa bệnh, đặc biệt là tính lương vào giá dịch vụ y tế đã thúc đẩy nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện rõ rệt thái độ phục vụ, tăng quyền lợi của người có thẻ BHYT. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có một số mức thu vượt khung giá quy định; thu tiền thuốc, vật tư, hóa chất vượt so với giá trúng thầu, một số khoản mục bất hợp lý trong giá như không trực tiếp phục vụ cho dịch vụ, vượt quá định mức quy định... Giá dịch vụ được kết cấu chi phí trực tiếp, phụ cấp thường trực, phụ cấp phẫu thuật, thủ thuật và tiền lương, tuy nhiên mức đóng BHYT hiện nay chưa kết cấu một số khoản chi như phụ cấp thường trực, phụ cấp phẫu thuật, thủ thuật. Điều này dẫn đến các quan niệm khác nhau giữa các cơ quan nhà nước và giữa các cơ sở khám, chữa bệnh với BHYT. Tại các cơ sở khám, chữa bệnh công lập hiện nay đang tồn tại một số khoản thu không thuộc danh mục giá dịch vụ khám, chữa bệnh mà chúng tôi gọi là chi phí đi kèm dịch vụ y tế. Tuy nhiên cho đến nay chưa có cơ chế quy định rõ ràng là có được thu hay không? Thu mức bao nhiêu? Các chi phí này là thực tế nhưng đã có trong giá dịch vụ hay chưa? Đây là dấu hỏi đặt ra không chỉ cho các cơ sở khám, chữa bệnh và các cơ quan nhà nước. Kết quả kiểm toán cho thấy, các khoản thu này rất khác nhau ở các cơ sở khám, chữa bệnh khác nhau như dịch vụ người nhà, dịch vụ sử dụng quần áo bệnh viện, các dịch vụ đi kèm dịch vụ khám, chữa bệnh Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề cơ chế cần làm rõ để các cơ sở khám, chữa bệnh dễ dàng thực hiện, tránh rủi ro cho nhà quản lý cơ sở khám, chữa bệnh khi làm việc với các cơ quan nhà nước đồng thời tạo ra tính minh bạch để cơ sở khám, chữa bệnh và người bệnh, người nhà bệnh nhân dễ thực hiện, thậm chí dễ dàng trong việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. 3. Về cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị tự chủ Mục tiêu căn bản của tự chủ là giúp các bệnh viện sử dụng tài sản công một cách có hiệu quả 32 Cô Cheá töï Chuû taøi Chính Cuûa CaùC ñôn vò söï nghieäp y teá coâng laäp NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 136 - tháng 2/2019 nhất, đúng mục đích, gắn với chức năng, nhiệm vụ được giao trên nguyên tắc đảm bảo công khai, minh bạch. Trên thực tế, nhiều cơ sở khám, chữa bệnh đã sử dụng hiệu quả tài sản của đơn vị để tăng doanh thu chính đáng từ các hoạt động như cho thuê mặt bằng, trang thiết bị, liên doanh liên kết với đối tác bên ngoài... Tuy nhiên, qua kiểm toán cho thấy công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại một số bệnh viện công lập còn nhiều tồn tại cần có biện pháp khắc phục và xử lý kịp thời. Sau đây là một số vấn đề quan trọng chủ yếu: Một là, về cơ chế liên doanh liên kết và hợp tác công tư khi thực hiện tự chủ tại các cơ sở khám, chữa bệnh công lập Hiện nay các bệnh viện được quyền liên doanh liên kết với đối tác ngoài để đầu tư trang thiết bị và thực hiện khám, chữa bệnh. Đây là cách thu hút tương đối mạnh mẽ và hiệu quả trong những năm qua, khắc phục được tình trạng thiếu trang thiết bị y tế cho cơ sở khám, chữa bệnh trong khi nguồn NSNN không đủ tài trợ. Tuy nhiên hoạt động đầu tư từ nguồn vốn tư nhân thường mang tính thương mại, vì mục đích lợi nhuận, điều đó vô hình chung đã đẩy giá khám, chữa bệnh lên cao và chỉ những người có thu nhập cao mới có khả năng sử dụng. Ngoài ra, việc liên doanh liên kết ồ ạt với khu vực tư thiếu sự kiểm soát hợp lý của cấp có thẩm quyền tiềm ẩn nguy cơ lợi ích nhóm trong hợp tác và phân chia lợi nhuận. Kết quả kiểm toán một số năm gần đây cho thấy tại một số đơn vị còn chia lợi nhuận cho đối tác khi đã hết thời gian thực hiện đề án liên doanh liên kết, chưa đánh giá đúng và đủ các chi phí về mặt bằng, thương hiệu của đơn vị khi tham gia đề án hoặc chưa làm rõ giá trị máy móc thiết bị tham gia vào liên doanh, liên kết của đối tác gây bất lợi cho bệnh viện. Có trường hợp ký hợp đồng liên kết với thời gian thực hiện dài hơn thời gian khấu hao của máy móc thiết bị, còn tình trạng công ty đưa máy móc tham gia liên kết sử dụng hóa chất độc quyền do chính mình cung cấp, gây phụ thuộc nguồn cung và giá thành hóa chất, giảm hiệu quả của việc liên doanh liên kết... Quan điểm, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 19/NQ-TW, Nghị quyết số 20/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII là đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách để đầu tư; đa dạng hóa các hình thức hợp tác công - tư, cho phép liên kết, hợp tác giữa các cơ sở y tế công lập và tư nhân, nhưng phải dựa trên nguyên tắc công khai, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng. Do đó, để khắc phục được những tồn tại, hạn chế trong hợp tác công tư các đơn vị cần chủ động công khai, minh bạch trong chủ trương hợp tác, cơ chế quản lý thu chi, phân chia lợi nhuận. Đồng thời, phải công khai trong lựa chọn nhà đầu tư, xác định giá trị tài sản, trong việc cử viên chức, người lao động của bệnh viện sang thực hiện nhiệm vụ tại khu vực xã hội hóa. Mặt khác, cần có một cơ chế kiểm soát phù hợp và hành lang pháp lý rõ ràng để quản lý cũng như chế tài xử phạt mang tính răn đe đối với những hành vi gian lận, tư lợi cá nhân trong hoạt động liên doanh liên kết, ảnh hưởng đến lợi ích và uy tín của Nhà nước. Hai là, về cơ chế quản lý tài sản, công tác đấu thầu mua sắm trang thiết bị y tế, đầu tư cơ sở vật chất - Đối với các bệnh viện lớn trực thuộc Bộ Y tế Việc các bệnh viện được tự chủ lên kế hoạch 33NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 136 - tháng 2/2019 mua sắm trang thiết bị, đầu tư cơ sở hạ tầng mà không được sự điều phối của cấp có thẩm quyền có thể dẫn đến tình trạng đầu tư vượt quá nhu cầu, không đồng bộ với công tác đào tạo cán bộ sử dụng gây lãng phí nguồn lực rất lớn. Kết quả kiểm toán của KTNN những năm gần đây cho thấy, tại nhiều bệnh viện còn tình trạng trang thiết bị mua về không được sử dụng, hoặc chưa bố trí được cơ sở hạ tầng đồng bộ để lắp đặt có thể dẫn đến hỏng hóc, giảm thời gian khấu hao của máy móc, trang thiết bị gây lãng phí nguồn tài chính công. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề án liên doanh, liên kết với các tổ chức khu vực tư, dưới áp lực về doanh thu đối với các thiết bị tham gia liên doanh, liên kết có thể dẫn đến tình trạng chỉ định dùng máy liên doanh liên kết, trong khi máy móc đầu tư từ nguồn NSNN còn sử dụng tốt, đảm bảo chất lượng cho công tác khám, chữa bệnh, gây lãng phí tài sản của Nhà nước. - Đối với các bệnh viện trực thuộc các cơ sở đào tạo Thực tế cho thấy, mặc dù tại một số bệnh viện tự chủ 100% song trực thuộc các cơ sở đào tạo tự chủ một phần phát sinh các vấn đề về cơ chế phân cấp, phân nhiệm, chưa được chủ động hoàn toàn trong công tác mua sắm, cải tạo sửa chữa còn phụ thuộc vào đơn vị quản lý, phần nào ảnh hưởng đến quá trình hoạt động chuyên môn, đáp ứng kịp thời công tác khám, chữa bệnh. Do đó, để tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý, sử dụng tài sản công cần nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm của đơn vị tự chủ, thực hiện công khai minh bạch trong quản lý và sử dụng tài sản gắn với trách nhiệm người đứng đầu, đồng thời tăng cường sự kiểm tra, giám sát của cấp có thẩm quyền. Ngoài ra, Bộ Y tế cần nghiên cứu về cơ chế phân cấp, phân nhiệm, tự chủ về mua sắm, sửa chữa đối với các bệnh viện trực thuộc các cơ sở đào tạo nhằm phát huy tính chủ động và đáp ứng kịp thời công tác khám, chữa bệnh. 4. Mô hình quản lý đối với các cơ sở khám, chữa bệnh công lập Hiện nay các cơ sở khám, chữa bệnh công lập đang tồn tại dưới hình thức chủ yếu là các bệnh viện công lập. Một số trường đại học thành lập cơ sở khám, chữa bệnh trong trường để phục vụ mục đích nghiên cứu và thực tập của sinh viên và kết hợp khám, chữa bệnh cho nhân dân. Một số bệnh viện lại có trường trực thuộc làm nhiệm vụ đào tạo hộ lý, y tá phục vụ cho nhu cầu của bệnh viện và cung cấp cho cơ sở khám, chữa bệnh khác. Mô hình đan xen như vậy nhưng cách thức quản lý hiện nay chỉ gói gọn là đối với các bệnh viện công lập. Trong khi thực tế cần một cơ chế rộng rãi, thông thoáng hơn, phù hợp hơn với thực tế đang diễn ra hiện nay. Đối với Bệnh viện thuộc trường mà điển hình như Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh hay Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Đây là các Bệnh viện lớn trực thuộc Trường. Nhưng cơ chế quản lý chưa rõ ràng nhất là mối quan hệ giữa Bệnh viện và Trường. Đôi khi rất khó khăn cho việc quản lý như chế tài nộp về trường một phần thu nhập ra sao. Và nếu nộp thì trong tương quan với các bệnh viện khác liệu có sự bất bình đẳng hay không Cơ chế điều phối, tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ ở các cơ sở này thế nào? Cơ chế quản lý và hạch toán của Trường ra sao đối với viện là đơn vị trực thuộc? Đây là vấn đề đặt ra mà các cơ quan quản lý phải xử lý trong tiến trình hướng tới tự chủ một cách toàn diện đối với các cơ sở ý tế công lập. Đôi điều kiến nghị Để thực hiện đúng với tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 về đổi mới cơ chế đối với ĐVSNCL, trên cơ sở nghiên cứu những bất cập, tác giả xin đưa ra một vài khuyến nghị về cơ chế quản lý như sau: (1) Đối với chi phí khám, chữa bệnh, theo chúng tôi cần nghiên cứu để người bệnh với các bệnh thông thường đến các cơ sở khám, chữa bệnh được hưởng quyền lợi như nhau, không nên phân biệt theo tuyến. Các cơ sở tuyến trên, có kỹ thuật và chất lượng cao sẽ cung cấp các dịch vụ y tế cao cấp mà không phải lo cạnh tranh với các dịch vụ y tế thông thường. Và từ đó chúng ta sẽ có các phân khúc trong khám, chữa bệnh và quản lý nguồn thu cũng như quản lý hệ thống các bệnh viện một cách hiệu quả hơn. (2) Đối với thanh toán BHYT, theo chúng tôi cần tư duy theo hướng là thanh toán theo gói dịch 34 Cô Cheá töï Chuû taøi Chính Cuûa CaùC ñôn vò söï nghieäp y teá coâng laäp NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 136 - tháng 2/2019 vụ. Tùy theo mệnh giá mua BHYT mà được thụ hưởng các gói dịch vụ khác nhau kể cả dịch vụ y tế cao cấp nếu mua BHYT với loại hình dịch vụ này. Trước mắt chúng ta nên chấp nhận việc thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bằng nguồn BHYT theo mức giá mà liên bộ Tài chính - Y tế ban hành. Trong trường hợp cơ sở khám, chữa bệnh mà tiết kiệm được các loại vật tư thì khuyến khích. Tuy nhiên ở đây phải hiểu là tiết kiệm được chứ không phải bớt xén của bệnh nhân. Trong thời gian tới, BHXH cần phối hợp chặt chẽ với các cơ sở khám, chữa bệnh để thanh quyết toán chi phí khám, chữa bệnh từ nguồn BHYT kịp thời. Tránh tình trạng quyết toán quá muộn ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ sở khám, chữa bệnh. Ảnh hưởng đến cân đối tài chính của các cơ sở khám, chữa bệnh. Giải quyết được bài toán giữa chi phí khám, chữa bệnh từ nguồn BHYT phải chịu giá thuốc cao do các bệnh viện phải nợ nhà thuốc. (3) Về các định mức tiêu hao vật tư trong khám, chữa bệnh, theo chúng tôi, các cơ quan nhà nước không nên tham gia ban hành các định mức này mà do cơ sở khám, chữa bệnh quyết định. Đây là hướng mở ra cho các cơ sở khám, chữa bệnh phải tự chủ và quyết định những vấn đề cụ thể trong hoạt động của mình. Nhà nước chỉ ban hành giá dịch vụ khám, chữa bệnh đối với các bệnh thông thường. Các chi phí, vật tư tiêu hao chi tiết cụ thể để các cơ sở khám, chữa bệnh quyết định. (4) Về liên kết công tư trong khám, chữa bệnh: Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong điều kiện nguồn lực của Nhà nước, của cơ sở khám, chữa bệnh hạn hẹp. Tuy nhiên cần có cách thức quản lý minh bạch hơn thông qua đấu thầu, thông qua kế hoạch, chiến lược được phê duyệt bởi cơ quan có thẩm quyền để loại bỏ tình trạng nâng giá máy, nâng thời gian liên kết. Đối với đất đai các cơ sở khám, chữa bệnh đang quản lý cần quản lý và sử dụng chặt chẽ hơn tránh để mất quyền sử dụng đất khi liên doanh liên kết, tránh thiệt hại của cơ sở khám, chữa bệnh, của Nhà nước trong quản lý, sử dụng đất. (5) Đối với mô hình cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc ĐVSNCL: Cần nghiên cứu mô hình quản lý chuyên môn, quản lý tài chính, tài sản, hạch toán kế toán đảm bảo được tính đồng nhất, có thể hợp nhất được. Cần có phân cấp, phân quyền rõ ràng trong quản lý, bổ nhiệm, tuyển dụng viên chức tại các cơ sở này để một mặt tăng cường tính chủ động nhưng đồng thời đảm bảo kiểm tra, kiểm soát của đơn vị cấp trên và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu và triển khai trong thực tiễn. kết luận Trên đây là những góc nhìn đặt ra khi thực hiện cơ chế tự chủ tại các cơ sở khám, chữa bệnh công lập. Để thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ các cơ sở khám, chữa bệnh công lập, chúng ta cần nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó mở rộng quyền tự chủ, tự quyết định của các cơ sở khám, chữa bệnh để có thể thu hút nguồn lực phục vụ khám, chữa bệnh của nhân dân. Đồng thời tăng cường kiểm tra kiểm soát để tránh lạm dụng nguồn lực công trong khám, chữa bệnh, tránh được lợi ích nhóm trong lĩnh vực được coi là nhân đạo này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 19/NQ-TW, Hội nghị Trung ương 6 Khóa XII cũng như mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, không phân biệt tầng lớp, giai cấp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật KTNN; 2. Báo cáo kiểm toán của KTNN tại Bộ Y tế các năm; 3. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về cơ chế tự chủ, tự chịu tránh nhiệm đối với các ĐVSNCL; 4. Nghị định số 16/2016/NĐ-CP về cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL; 5. Thời báo tài chính Việt Nam onlines (Bộ Tài chính) số ra ngày 24/7/2018: “Tự chủ tài chính bệnh viện: Phải công khai, minh bạch trong hợp tác công tư”: http:// thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip- song-tai-chinh/2018-07-24/tu-chu-tai- chinh-benh-vien-phai-cong-khai-minh- bach-trong-hop-tac-cong-tu-60209.aspx.
File đính kèm:
- co_che_tu_chu_tai_cac_co_so_kham_chua_benh_cong_lap_thuc_tra.pdf