Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh

Từ thực tiễn kinh doanh tại nước ta hiện nay có thể thấy, các quy định pháp luật về cơ cấu tổ

chức của công ty cổ phần (CTCP) trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 vẫn đang tồn tại khá nhiều

hạn chế, bất cập, gây ảnh hưởng đến quá trình tổ chức, hoạt động của các công ty này. Do đó, bài

viết nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của CTCP tại Cộng hòa liên bang (CHLB) Đức và so sánh với

quy định hiện hành của Việt Nam nhằm tìm ra các hạn chế, bất cập và đề xuất một số kiến nghị.

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh trang 1

Trang 1

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh trang 2

Trang 2

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh trang 3

Trang 3

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh trang 4

Trang 4

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh trang 5

Trang 5

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh trang 6

Trang 6

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3680
Bạn đang xem tài liệu "Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh

Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức - Dưới góc độ so sánh
 quyền trực 
tiếp chỉ định và bãi miễn các thành viên của 
Hội đồng quản trị giống như tại Đức. Hơn 
nữa, Hội đồng quản trị tại Việt Nam từ trước 
tới nay luôn được tập trung quá nhiều quyền 
lực; vai trò, ảnh hưởng của cơ quan này rất 
lớn nên Ban kiểm soát thường gặp phải 
nhiều khó khăn, phức tạp khi giám sát các 
hoạt động của Hội đồng quản trị.
- Về Giám đốc/Tổng giám đốc, đây là người 
chịu trách nhiệm điều hành các công việc 
kinh doanh hằng ngày của CTCP. Do đó, 
các chức danh này phải chịu trách nhiệm 
trước Hội đồng quản trị. Theo quy định tại 
Luật Doanh nghiệp năm 2020, quyền hạn và 
nghĩa vụ của Giám đốc/Tổng giám đốc chủ 
yếu quyết định về các vấn đề liên quan đến 
29  Khoản 1, Điều 168 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
30  Điều 170 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
31  Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát bị vô hiệu 
hóa như thế nào?, nguồn truy cập: 
vn/doanh-nhan/ban-kiem-soat-bi-vo-hieu-hoa-nhu-the-
nao-20100330111055423.htm.
32  Phạm Duy Nghĩa (2015), Giáo trình Luật Kinh tế, 
sđd, tr. 247.
NGUYỄN VINH HƯNG - NGUYỄN HOÀNG YẾN
99Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
công việc kinh doanh hằng ngày của công ty 
mà không thuộc thẩm quyền của Hội đồng 
quản trị33. 
Nhận xét chung về mô hình tổ chức thứ 
nhất của CTCP, có thể thấy Đại hội đồng cổ 
đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của 
CTCP và quy định này luôn được giữ nguyên 
kể từ Luật Công ty năm 1990 cho đến nay34. 
Tuy nhiên, khác với Việt Nam, tại Đức, “tổ 
chức CTCP bắt buộc phải có 3 cơ quan... nhằm 
hướng tới sự phân chia đồng đều về quyền 
lãnh đạo và quản lý giữa các cơ quan. Đại 
hội cổ đông thực chất không còn là cơ quan 
tối cao như trước đây”.35 Hơn nữa, nếu hoạt 
động theo mô hình thứ nhất của Việt Nam, 
Ban kiểm soát chỉ có thể giám sát hoạt động 
của Hội đồng quản trị chứ không có quyền 
quản lý các thành viên của Hội đồng quản trị 
giống như mô hình đang áp dụng tại Đức. 
Do đó, mô hình thứ nhất dễ dàng làm cho các 
thành viên của Hội đồng quản trị thao túng 
mọi quyền hạn trong CTCP. Vì vậy, việc quản 
lý và giám sát các thành viên Hội đồng quản 
trị luôn khó khăn, phức tạp.
* Đối với mô hình thứ hai (có sự tham gia 
của Ban kiểm toán nội bộ và thành viên độc 
lập): Bên cạnh việc giữ nguyên mô hình tổ 
chức điều hành truyền thống, mô hình quản 
trị công ty này bắt đầu được Luật Doanh 
nghiệp năm 2014 quy định và sau đó Luật 
Doanh nghiệp năm 2020 có một số thay đổi 
rất nhỏ36. Theo mô hình này, CTCP có thể hoạt 
động với các thiết chế bao gồm Đại hội đồng 
cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng 
giám đốc. Trong đó, Hội đồng quản trị bắt 
buộc phải có hai loại thành viên khác nhau là 
thành viên chịu trách nhiệm điều hành mọi 
hoạt động của công ty (thành viên điều hành) 
và thành viên độc lập. Bên cạnh đó, trong mô 
hình tổ chức thứ hai của CTCP còn có sự tham 
gia của Ủy ban kiểm toán là cơ quan trực 
thuộc của Hội đồng quản trị37.
33  Điểm a, khoản 1, Điều 162 Luật Doanh nghiệp năm 
2020.
34  Điều 37 Luật Công ty năm 1990.
35  Friedrich Fubler và Jurgen Simon (1992), Mấy vấn 
đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 47. 
36  Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị 
trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 được đổi thành 
Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị trong 
Luật Doanh nghiệp năm 2020.
37  Điểm b, khoản 1, Điều 137 Luật Doanh nghiệp 
năm 2020.
“So với mô hình cơ cấu tổ chức truyền 
thống của CTCP bên trên thì đối với mô hình 
tổ chức mới này, các vấn đề cơ bản như vị trí, 
vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và các quy định 
khác của các cơ quan Đại hội đồng cổ đông, 
Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc 
là tương tự như nhau”38. Sự khác biệt chỉ thể 
hiện khi trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng 
quản trị còn có thêm sự tham gia của Ủy ban 
kiểm toán và thành viên độc lập. Theo đó, 
nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban kiểm toán 
và thành viên độc lập thể hiện như sau:
- Về Ủy ban kiểm toán và thành viên độc lập: 
Mô hình quản trị điều hành thứ hai của CTCP 
không có Ban kiểm soát mà thay vào đó là Ủy 
ban kiểm toán và thành viên độc lập “thực 
hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện 
việc kiểm soát đối với việc quản lý, điều hành 
công ty”.39 Cụ thể, Hội đồng quản trị phải có ít 
nhất 20% số thành viên là thành viên độc lập 
và các thành viên độc lập này được quyền thực 
hiện việc giám sát và kiểm soát đối với việc 
quản lý điều hành công ty40. Tuy nhiên, để có 
thể trở thành thành viên độc lập thì ứng viên sẽ 
phải đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện khá 
chặt chẽ41. Đồng thời, nhằm đảm bảo sự vô tư, 
khách quan khi thực hiện công việc, về nguyên 
tắc, thành viên độc lập không được phép giữ 
bất kỳ chức vụ nào trong công ty. Vì thế, thành 
viên độc lập sẽ không được đảm nhiệm các các 
chức danh như Chủ tịch Hội đồng quản trị, 
Giám đốc/Tổng giám đốc, Phó Giám đốc/Phó 
Tổng giám đốc, Kế toán trưởng Bên cạnh đó, 
Luật Doanh nghiệp năm 2020 không cho phép 
một cá nhân được bầu làm thành viên độc lập 
Hội đồng quản trị quá 02 nhiệm kỳ liên tục. Có 
lẽ điều này là bởi Luật Doanh nghiệp năm 2020 
mong muốn các cá nhân khi tham gia dưới vai 
trò thành viên độc lập có sự độc lập, vô tư, 
khách quan và không bị ảnh hưởng bởi các lợi 
ích, cám dỗ từ vị trí lâu dài của mình trong Hội 
đồng quản trị.
So với mô hình thứ nhất, mô hình thứ hai 
giúp cho CTCP có thể tổ chức bộ máy quản 
lý và giám sát khá đơn giản, dễ dàng nhưng 
với cách tổ chức như vậy đã làm cho Ủy ban 
kiểm toán bị phụ thuộc trực tiếp vào Hội 
38  Nguyễn Vinh Hưng, Cơ cấu tổ chức của CTCP theo 
Luật Doanh nghiệp năm 2014, tlđd, tr. 26.
39  Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật 
Thương mại Việt Nam, Tập I, sđd, tr. 212 - 213.
40  Điểm b, khoản 1, Điều 137 Luật Doanh nghiệp năm 
2020.
41  Khoản 2, Điều 155 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT... 
100 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021
đồng quản trị. Vì vậy, Hội đồng quản trị càng 
dễ dàng điều khiển, thao túng, chi phối Ủy 
ban kiểm toán bởi suy cho cùng, Ủy ban kiểm 
toán chỉ là cơ quan trực thuộc của Hội đồng 
quản trị. Còn đối với cổ đông hoặc nhóm cổ 
đông thiểu số thì để đủ điều kiện trở thành 
thành viên độc lập của Hội đồng quản trị lại 
càng không dễ dàng. Sở dĩ như vậy là vì các 
cổ đông hoặc nhóm cổ đông thiểu số sẽ rất 
khó có đủ số phiếu bầu cần thiết để có thể 
cử người vào Hội đồng quản trị. Do đó, nếu 
hoạt động theo mô hình tổ chức thứ hai, các 
cổ đông lớn hoặc nhóm cổ đông lớn và các 
thành viên Hội đồng quản trị càng dễ dàng 
thao túng mọi hoạt động của CTCP.
Tóm lại, có nhận định cho rằng, “nền kinh 
tế của CHLB Đức là một minh chứng mạnh 
mẽ cho sự phát triển của mô hình CTCP”42. 
Trong đó, một lý do quan trọng dẫn đến việc 
các nhà đầu tư tại Đức luôn ưa chuộng CTCP 
chính là mô hình tổ chức của công ty này hoạt 
động rất hiệu quả. Sự phối hợp, kiểm soát và 
giám sát giữa các cơ quan trong bộ máy của 
CTCP được tổ chức rất chặt chẽ, khoa học và 
hạn chế đáng kể sự lạm dụng quyền lực của 
các cổ đông lớn hoặc nhóm cổ đông lớn.
2. Một số kiến nghị
Có thể thấy rằng, “không thể phủ nhận 
tầm quan trọng, vai trò và ảnh hưởng của 
CTCP đối với nền kinh tế Việt Nam hiện 
nay”43. Chính vì vậy, loại hình công ty này 
luôn được pháp luật quan tâm và cố gắng 
hoàn thiện. Tuy nhiên, nghiên cứu về cơ cấu 
tổ chức của CTCP tại CHLB Đức và Việt Nam 
cho thấy các mô hình tổ chức của CTCP tại 
Việt Nam hiện vẫn chưa thật sự bảo vệ cho 
các cổ đông nhỏ hoặc nhóm cổ đông nhỏ. 
Trên thực tế, hoạt động của Ban kiểm soát hay 
Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản 
trị và thành viên độc lập đối với việc kiểm tra, 
giám sát các hoạt động của Hội đồng quản 
trị vẫn khá mờ nhạt nên chưa phát huy hết 
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan này. Hơn 
nữa, việc không cho phép Hội đồng quản trị 
hoạt động chỉ với một thành viên cũng là các 
vấn đề chưa thật sự hợp lý và phù hợp với 
thực tiễn kinh doanh tại Việt Nam hiện nay. 
Từ đó, nhóm tác giả cho rằng để quy định về 
42  Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2016), Thể chế pháp 
luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, sđd, tr. 271.
43  Nguyễn Vinh Hưng (2021), CTCP trong môi trường 
thương mại Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập 
pháp, số 01, tr. 40.
cơ cấu tổ chức của CTCP trở nên hoàn thiện 
và phù hợp với các hoàn cảnh, điều kiện tại 
Việt Nam, cần xem xét các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tăng cường quyền hạn cho Ban 
kiểm soát/Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng 
quản trị
Nếu như pháp luật Việt Nam luôn dành sự 
quan tâm rất lớn đến Hội đồng quản trị và tập 
trung cho cơ quan này nhiều quyền hạn quan 
trọng thì pháp luật của Đức lại dành nhiều sự 
quan tâm đến Hội đồng giám sát (Ban kiểm 
soát). Có thể do pháp luật của Đức quan niệm 
cần phải giám sát chặt chẽ hoạt động của Hội 
đồng quản trị. Bởi Hội đồng quản trị luôn 
nắm giữ rất nhiều quyền hạn quan trọng và 
thông thường các hoạt động tư lợi, gian lận 
luôn phát sinh từ chính cơ quan này. Do đó, 
khác với quy định của Việt Nam, ở Đức, Ban 
kiểm soát được quy định nhiều quyền hạn 
quan trọng. Chính vì vậy, cần xem xét và phải 
tăng cường hơn nữa quyền hạn cho Ban kiểm 
soát/Ủy ban kiểm toán trong việc kiểm tra, 
giám sát các hoạt động của Hội đồng quản trị. 
Cụ thể, cần thay đổi lại quy định về quyền 
yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông 
của Ban kiểm soát như hiện nay. Trong đó, 
Ban kiểm soát/Ủy ban kiểm toán phải được 
quyền trực tiếp triệu tập họp Đại hội đồng 
cổ đông ngay mà không cần phải thông qua 
Hội đồng quản trị hoặc phải chờ Hội đồng 
quản trị không triệu tập họp thì trong thời 
hạn 30 ngày tiếp theo các cơ quan này mới có 
quyền trực tiếp triệu tập họp Đại hội đồng cổ 
đông như quy định tại khoản 3 Điều 140 Luật 
Doanh nghiệp năm 2020. 
Ngoài ra, không chỉ Đức mà pháp luật 
Cộng hòa Pháp cũng cho phép Ban kiểm soát 
rất nhiều quyền hạn quan trọng như “các kiểm 
toán viên (kiểm soát viên) có thể triệu tập Đại 
hội đồng bất cứ lúc nào nếu họ thấy tình hình 
công ty trở nên nghiêm trọng và đề nghị bãi 
nhiệm các ủy viên quản trị (thành viên Hội 
đồng quản trị)”.44 Có như vậy, Ban kiểm soát/
Ủy ban kiểm toán mới có thể linh hoạt và tự 
chủ động trong việc thực hiện các nhiệm vụ, 
quyền hạn của mình. Mặt khác, điều đó còn 
làm giảm bớt sự lệ thuộc của Ban kiểm soát/
Ủy ban kiểm toán vào Hội đồng quản trị.
Thứ hai, cần bỏ quy định về giới hạn số lượng 
thành viên của Hội đồng quản trị
44  Francis Lemeunier (1992), Nguyên lý và thực hành 
Luật Thương mại Luật Kinh doanh, Nxb. Chính trị quốc 
gia, tr. 227 - 230.
NGUYỄN VINH HƯNG - NGUYỄN HOÀNG YẾN
101Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
Như đã phân tích, pháp luật Đức cho 
phép Hội đồng quản trị của CTCP có thể chỉ 
cần duy nhất một người và không bị khống 
chế số lượng thành viên tối đa45. Còn tại Việt 
Nam, trong mọi trường hợp, CTCP đều phải 
có bắt buộc tối thiểu 03 người và tối đa không 
được quá 11 người.46 Không ít nhà đầu tư đã 
tìm cách nhờ vả những người thân thích hay 
bạn bè để vờ đứng tên cho đủ số lượng cổ 
đông tối thiểu nên trên thực tế, khi CTCP 
hoạt động thì những cổ đông “ma”, cổ đông 
“ảo” hay cổ đông “danh nghĩa” đó không 
hề có đóng góp, thậm chí nhiều khi còn làm 
khó khăn, phức tạp cho các hoạt động của 
công ty mà điển hình như quy định Hội 
đồng quản trị phải luôn có tối thiểu 03 thành 
viên. Vì vậy, đã từng có quan điểm cho rằng, 
“không nên khống chế số lượng thành viên 
Hội đồng quản trị mà nên để các công ty tự 
quyết định số lượng thành viên Hội đồng 
quản trị”.47 Nhóm tác giả cho rằng quy định 
theo hướng này là hợp lý và rất phù hợp với 
thực tiễn hoạt động hiện nay của các CTCP 
tại Việt Nam. Từ đó, cần bỏ quy định về số 
lượng thành viên tối thiểu và tối đa của Hội 
đồng quản trị tại khoản 1 Điều 154 của Luật 
Doanh nghiệp năm 2020 và cho phép CTCP 
được quyền tự quyết định số lượng thành 
viên Hội đồng quản trị sao cho phù hợp với 
từng điều kiện, hoàn cảnh. 
Ngoài ra, về lâu dài cũng nên xem xét 
việc “bỏ quy định về số lượng cổ đông tối 
thiểu cho CTCP vì nếu công ty bắt buộc 
phải có ba cổ đông thì khi số lượng cổ đông 
không đạt được mức tối thiểu, CTCP có thể 
có nguy cơ phải chuyển đổi loại hình doanh 
nghiệp và chấm dứt tồn tại”48. Điều này là 
rất cần thiết và phù hợp với thực tiễn kinh 
doanh tại Việt Nam hiện nay bởi có như vậy, 
nhà đầu tư sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn khi 
lựa chọn CTCP./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Vneconomy.vn, Ban kiểm soát 
45  Friedrich Fubler và Jurgen Simon (1992), Mấy vấn 
đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, sđd, tr. 49.
46  Khoản 1, Điều 154 của Luật Doanh nghiệp năm 
2020.
47  Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2016), Thể chế pháp 
luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, sđd, tr. 485.
48  Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2016), Thể chế pháp 
luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, sđd, tr. 484.
bị vô hiệu hóa như thế nào?, nguồn truy cập: http://
vneconomy.vn/doanh-nhan/ban-kiem-soat-bi-vo-hieu-
hoa-nhu-the-nao-20100330111055423.htm.
2. Khoa Luật - Trường Đại học Khoa học xã 
hội và nhân văn (1998), Giáo trình Luật Kinh tế Việt 
Nam, Nxb. ĐHQGHN.
3. Friedrich Fubler và Jurgen Simon (1992), 
Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, 
Nxb. Pháp lý.
4. Nguyễn Thị Khế (2007), Pháp luật về tổ chức 
các hình thức kinh doanh, Nxb. Tư pháp.
5. Nguyễn Vinh Hưng (2019), Cơ cấu tổ chức 
của Công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 
2014, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 24.
6. Nguyễn Vinh Hưng (2021), Công ty cổ phần 
trong môi trường thương mại Việt Nam hiện nay, Tạp 
chí Nghiên cứu lập pháp, số 01.
7. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so 
sánh về Công ty cổ phần theo Luật công ty Nhật Bản và 
Luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại 
học Quốc gia Hà Nội, Luật học 25 (2009).
8. Francis Lemeunier (1992), Nguyên lý và thực 
hành Luật Thương mại Luật Kinh doanh, Nxb. Chính 
trị quốc gia.
9. Lê Học Lâm và Lê Ngọc Đức (2010), Luật 
Kinh doanh, Nxb. Thống kê.
10. Phạm Duy Nghĩa (2009), Luật Doanh nghiệp 
- Tình huống - Phân tích - Bình luận, Nxb. Đại học 
Quốc gia Hà Nội
11. Phạm Duy Nghĩa (2015), Giáo trình Luật 
Kinh tế, Nxb. Công an nhân dân.
12. Nguyễn Như Phát (chủ biên 2011), Giáo 
trình Luật Kinh tế Việt Nam, Viện Đại học Mở Hà 
Nội, Nxb. Công an nhân dân.
13. Quốc hội, Luật Công ty năm 1990.
14. Quốc hội, Luật Doanh nghiệp năm 2014.
15. Quốc hội, Luật Doanh nghiệp năm 2020.
16. Lê Minh Toàn (chủ biên 2006), Luật Kinh tế 
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia.
17. Phan Thị Thanh Thủy (2018), Bàn về 
tính minh bạch trong quản trị CTCP ở Việt Nam, 
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 01, nguồn truy 
cập: 
aspx?tintucid=206802.
18. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo 
trình luật thương mại, Tập I, Nxb. Công an nhân dân.
19. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2016), Thể chế 
pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới, Nxb. 
Tài chính.

File đính kèm:

  • pdfco_cau_to_chuc_cua_cong_ty_co_phan_theo_phap_luat_viet_nam_v.pdf