Chuyển hóa pháp luật và các vấn đề ở Việt Nam (Phần 1)
Chuyển hóa pháp luật vừa là vấn đề mới vừa là vấn đề cũ của Việt Nam
hiện nay. Vấn đề cũ vì thực tế pháp luật Việt Nam đã có hiện tượng du
nhập pháp luật từ rất lâu đời. Chúng ta có thể thấy pháp luật của Trung
Hoa, Pháp đã du nhập vào nước chúng ta. Vấn đề mới là các nghiên
cứu của Việt Nam về vấn đề này còn thiếu, chưa toàn diện, nên cách
hiểu chuyển hóa pháp luật chưa sâu sắc, chưa chính thống, chưa có hệ
thống lý luận cũng như các nguyên tắc cơ bản dẫn dắt các hành động
lập pháp của chúng ta trong lĩnh vực này.
Một câu hỏi được đặt ra là chuyển hoá pháp luật ở Việt Nam cần được
hiểu như thế nào? Ở Việt Nam đang sử dụng các thuật ngữ khác nhau
về vấn đề này như du nhập pháp luật, tham khảo luật nước ngoài,
chuyển hóa pháp luật, cấy ghép pháp luật Rất nhiều ngôn ngữ được
sử dụng ở đây. Một khái niệm căn bản và sáng rõ thì quả thực chưa
hình thành.
Chuyển hóa pháp luật trong thông lệ của thế giới được hiểu theo hai
hướng cơ bản, đó là cách hiểu theo chiều dọc, từ tham khảo quy định
của các tổ chức quốc tế đến việc hoàn thiện quy định pháp luật của các
quốc gia (nội luật hóa) và chiều ngang là tham khảo luật của các quốc
gia khác trong cùng một vấn đề để xây dựng quy định pháp luật trong2
nước (tham khảo pháp luật nước ngoài). Vậy thì chuyển hoá pháp luật
và nội luật hoá khác nhau ở chỗ nào? Sau đây là một số phân tích các
điểm khác nhau giữa chuyển hóa pháp luật và nội luật hóa:
- Về tính chủ động, chuyển hóa pháp luật là chủ động trong việc lựa
chọn các nội dung tư tưởng pháp luật du nhập vào nước tiếp nhận.
Còn nội luật hóa là thực hiện theo các điều ước quốc tế, là nghĩa vụ
của mỗi quốc gia.
- Về phạm vi áp dụng, chuyển hóa pháp luật là mọi giá trị của các văn
bản pháp luật đều có thể nghiên cứu và xem xét, còn nội luật hóa chỉ
áp dụng cho các điều ước, các thoả thuận quốc tế.
- Về tính chính thức, chuyển hóa pháp luật tiến hành qua nhiều kênh
không chính thức tác động đến nhiều đối tượng và thẩm thấu vào mỗi
chính sách, còn nội luật hóa có tính chính thức cao hơn khi đưa nội
dung một quy định pháp lý quốc tế vào văn bản pháp luật trong nước
là nghĩa vụ của mỗi quốc gia. Về cách thức thực hiện, chuyển hóa pháp
luật phải đưa vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và cần các cơ
quan có thẩm quyền xem xét thông qua, còn với nội luật hóa, có thể
áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế hoặc ban hành văn bản mới để
thực hiện nội dung các điều ước quốc tế.
Thứ hai là vấn đề lịch sử chuyển hóa pháp luật ở Việt Nam. Việc du
nhập pháp luật nước ngoài vào Việt Nam được hình thành khá lâu. Từ
thời tái lập quốc gia năm 938 đến thời kỳ phong kiến cuối thế kỉ thứ 19,
Việt Nam đã tiếp nhận và bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng pháp luật,
văn hóa pháp lý Trung Quốc. Ngay như các bộ hình luật của chúng ta
thời phong kiến, mô hình nhà nước thời phong kiến gồm các Bộ cũng
chịu ảnh hưởng nhiều bởi mô hình Trung Quốc. Chúng ta cũng thấy,
trong thời kỳ Pháp đô hộ từ năm 1858 đến năm 1945, pháp luật Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng của pháp luật Cộng hoà Pháp khá rõ, thể hiện3
Thực tiễn và thách thức trong chuyển hóa pháp luật tại Việt Nam: Chia sẻ kinh nghiệm của Liên minh châu Âu
Challenges and practices of legal transplants in Viet Nam: Sharing European experiences
qua các văn bản pháp luật, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến dân
sự. Thậm chí, trong thời kỳ này một số Bộ Luật dân sự cũng được ban
hành. Tiếp theo đó, trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa giai đoạn
năm 1954 - 1986, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng pháp
luật của Liên Xô (Xô Viết) trong nhiều lĩnh vực, và ảnh hưởng của nó
vẫn còn tiếp tục cho đến ngày hôm nay (trong mô thức tổ chức quyền
lực, vấn đề quy định hình thức sở hữu ). Trong giai đoạn tiếp theo, từ
thời kỳ Đổi mới tính từ năm 1986 cho đến nay thì việc du nhập pháp
luật vào Việt Nam khá đa dạng, trong đó có sự du nhập nhiều tư tưởng
pháp luật của các nước phương Tây, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế
và một phần trong tổ chức bộ máy nhà nước, ví dụ các tư tưởng về các
cơ quan nhà nước kiểm soát lẫn nhau, tư tưởng về pháp quyền.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển hóa pháp luật và các vấn đề ở Việt Nam (Phần 1)
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. 3. Hiệu quả thi hành Luật Cạnh tranh Theo số liệu của Cục quản lý cạnh tranh thì cho đến hết năm 2013 đã có 64 vụ việc hạn chế cạnh tranh bị điều tra sơ bộ. Trong đó có 10 vụ được điều tra chính thức và 4 vụ đã được chuyển đến Hội đồng cạnh tranh để xem xét quyết định. Các phán quyết của Hội đồng cạnh tranh, tuy có bị khiếu nại/khiếu kiện nhưng đều đã được thi hành. Nhìn chung, đây là kết quả còn khá khiêm tốn so với thực tế hạn chế cạnh tranh trong các thị trường liên quan hiện nay bao gồm cả 3 lĩnh 108 vực: Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vụ trí thống lĩnh hoặc lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Điều đáng lưu ý là, trong bối cảnh khủng hoảng và cơ cấu lại nền kinh tế, vẫn chưa có vụ việc tập trung kinh tế nào bị phát hiện và xử lý. Nguyên nhân của thực trạng trên là xuất phát từ nhiều phía: (i) do nhận thức, hiểu biết pháp luật cạnh tranh của doanh nghiệp còn hạn chế; (ii) các quy định của Luật Cạnh tranh về vấn đề này còn nhiều hạn chế, bất cập như xác định thị trường liên quan, xác định doanh nghiệp thống lĩnh theo theo ngưỡng thị phần, xác định hành vi bị coi là lạm dụng và một số quy định liên quan đến biện pháp xử phạt và khắc phục hậu quả; (iii) sự hạn chế về nguồn lực (nhân lực, tài chính, thông tin) của cơ quan quản lý cạnh tranhTất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến quá trình tổ chức thực thi các quy định về kiểm soát độc quyền hiện nay trên thị trường Việt Nam. Về cạnh tranh tranh không lành mạnh có thể thấy rằng: hơn 8 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành, Luật Cạnh tranh đã phát huy vai trò tích cực trong việc giữ cho môi trường cạnh tranh lành mạnh, xử lý những hành vi làm cản trở cạnh tranh trên thị trường. Qua việc điều tra và xử lý các vu việc cạnh tranh từ năm 2007 - 2013 cho thấy, Luật Cạnh tranh đã thể hiện được vai trò quan trọng trong việc giữ gìn môi trường cạnh tranh tại Việt Nam. Những kết quả đạt được từ việc xét xử và xử lý các vụ việc cạnh tranh cho thấy sự ra đời của Luật Cạnh tranh là cần thiết và kịp thời, những quy định trong luật đã tạo điều kiện cho cơ quan cạnh tranh có cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động điều tra, xét xử các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh của Cục Quản lý cạnh tranh trong thời gian qua, thì số lượng các vụ việc cạnh tranh bị điều tra, xử lý vẫn còn hạn chế, cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn chưa thể phát huy 109 Thực tiễn và thách thức trong chuyển hóa pháp luật tại Việt Nam: Chia sẻ kinh nghiệm của Liên minh châu Âu Challenges and practices of legal transplants in Viet Nam: Sharing European experiences hết năng lực cũng như quyền hạn trong quá trình điều tra bởi nhiều nguyên nhân, có cả khách quan lẫn chủ quan. Qua thực tiễn công tác điều tra và xử lý các vụ việc cạnh tranh, có thể thấy cũng còn tồn tại một số hạn chế sau: - Hiện tượng phản cạnh tranh diễn ra trên thị trường ngày càng phổ biến và tinh vi nhưng các vụ việc phát hiện, tiếp nhận, điều tra và xử lý của cơ quan quản lý cạnh tranh trong 8 năm qua còn rất khiêm tốn (148 vụ) và tập trung chủ yếu ở hành vi cạnh tranh không lành mạnh, còn hành vi vi phạm pháp luật về hạn chế cạnh tranh bị xử lý còn rất khiếm tốn. - Trong hơn 8 năm thực thi Luật Cạnh tranh, có một số quy định về hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh chưa được áp dụng trên thực tế như xâm phạm bí mật kinh doanh (Điều 41), ép buộc trong kinh doanh (Điều 42), phân biệt đối xử của hiệp hội (Điều 47) và các hành vi về tập trung kinh tế. Kể từ khi thành lập cho đến nay, Cục Quản lý cạnh tranh chưa tiếp nhận bất kỳ đơn khiếu nại nào của doanh nghiệp liên quan đến xâm phạm bí mật kinh doanh có thể xuất phát từ những nguyên nhân: 1) Các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc chứng minh đối tượng bị xâm phạm đủ điều kiện là bí mật kinh doanh và chứng minh mình đã bảo mật đối tượng này bằng các biện pháp cần thiết; 2) Dạng hành vi này cũng không phải là một dạng hành vi phổ biến bởi cũng chỉ có một số ít doanh nghiệp sở hữu các bí mật kinh doanh có giá trị mà các doanh nghiệp khác muốn chiếm hữu (thường xảy ra trong ngành công nghệ thông tin, nhưng đối với ngành này thì các cách thức bảo mật cũng như cách thức tiếp cận với bí mật cũng sẽ rất đặc thù và tinh vi, khó phát hiện). - Đối với quy định về hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội hướng đến một đối tượng đặc biệt là các hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp. Ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, các hiệp 110 hội mạnh có tầm ảnh hưởng lớn đến hoạt động thị trường và các quyết định của hiệp hội tác động đáng kể đến tương quan cạnh tranh, có thể tạo lợi thế cho một hoặc một số thành viên so với những đối thủ hoạt động trong cùng lĩnh vực và cùng tham gia hiệp hội khác, qua đó làm sai lệch cạnh tranh. 4. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật cạnh tranh từ cách nhìn du nhập pháp luật 4.1. Về pháp luật nội dung a. Hoàn thiện pháp luật kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh - Cần bổ sung khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vào trong Luật Cạnh tranh. Luật Cạnh tranh không đưa ra khái niệm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà chỉ liệt kê các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trên thực tế, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể rất đa dạng cùng với sự thay đổi với những diễn biến phức tạp của nền kinh tế. - Cần phân loại các thòa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và theo chiều dọc. Các nước đều có sự phân định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thành hai nhóm: nhóm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và nhóm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc. Việc phân biệt thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và chiều dọc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực thi Luật Cạnh tranh. - Cần xem xét bổ sung quy định điều chỉnh hành vi của Hiệp hội các doanh nghiệp trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Mặc dù Hiệp hội ngành nghề không trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh trên thị trường nhưng hoạt động của Hiệp hội có thể tác động tới quá trình cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Ở Việt Nam trong thời gian qua, pháp luật cạnh tranh đã bỏ qua vai trò của 111 Thực tiễn và thách thức trong chuyển hóa pháp luật tại Việt Nam: Chia sẻ kinh nghiệm của Liên minh châu Âu Challenges and practices of legal transplants in Viet Nam: Sharing European experiences Hiệp hội trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Qua thực tiễn kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong thời gian qua cho thấy, trong 04 vụ việc bị điều tra, thì có 02 vụ việc có liên quan trực tiếp đến tổ chức hiệp hội. - Luật Cạnh tranh nên bổ sung một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và bổ sung căn cứ để xác định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc diện bị cấm. - Luật Cạnh tranh nên mở rộng đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối. Vì trên thực tế có loại thỏa thuận mà xét về tính chất nguy hiểm và không thể xác định được thị phần kết hợp. - Cần sửa đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dựa trên tiêu chí duy nhất là thị phần. Qua tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, các nước trên thế giới khi ban hành các quy định cấm đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều căn cứ vào bản chất gây hạn chế cạnh tranh của hành vi và thị phần chỉ là một trong các yếu tố để cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh có thể xem xét khi đánh giá về vụ việc. - Bổ sung các quy định liên quan đến miễn trừ. Theo đó có quy định về điều kiện để miễn trừ „đương nhiên“ và miễn trừ được xem xét cũng như thời hạn miễn trừ. b. Hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền - Thứ nhất, cần bổ sung quy định về đặc tính của dịch vụ để làm căn cứ cho việc xác định thị trường sản phẩm liên quan đối với dịch vụ. - Thứ hai, cần thay đổi cách thức xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Theo đó, xóa bỏ cách thức đánh giá vị trí thống lĩnh thị trường theo tiêu chí duy nhất là thị phần và theo các 112 mức thị phần cố định như hiện nay; và cần bổ sung vào cụm từ “khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể” thành “khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường liên quan” và xây dựng bộ tiêu chí cụ thể để đánh giá vị trí thống lĩnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp. - Thứ ba, cần quy định các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Hiện nay, Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa đưa ra định nghĩa hoặc các tiêu chí chung nhất để xác định như thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền mà chỉ mới liệt kê, mô tả các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để xác định giới hạn của sự cấm đoán mà chưa xác định bản chất hành vi. c. Hoàn thiện quy định pháp luật về tập trung kinh tế - Thứ nhất, cần hoàn thiện các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật cạnh tranh về tập trung kinh tế. Pháp luật cạnh tranh cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách những trường hợp tập trung kinh tế gây tổn hại thực sự cho môi trường cạnh tranh và những trường hợp có tác dụng tích cực cho nền kinh tế. - Thứ hai, cần quy định kết hợp giữa thị phần và các tiêu chí khác để xác định ngưỡng thông báo tập trung kinh tế. Như đã trình bày ở trên, việc Luật Cạnh tranh sử dụng thị phần là tiêu chí duy nhất để xác định mức độ gây tổn hại đến cạnh tranh của hành vi sáp nhập, hợp nhất và mua lại doanh nghiệp đã tạo ra khó khăn nhất định cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. d. Hoàn thiện các quy đinh pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh - Thứ nhất, cần mở rộng chủ thể áp dụng đối với các quy định về hành vi cạnh tranh không lành manh trong Luật Cạnh tranh là doanh nghiệp. 113 Thực tiễn và thách thức trong chuyển hóa pháp luật tại Việt Nam: Chia sẻ kinh nghiệm của Liên minh châu Âu Challenges and practices of legal transplants in Viet Nam: Sharing European experiences Việc quy định như vậy có thể được hiểu theo hai hướng: i) doanh nghiệp nước ngoài có hiện diện pháp lý tại Việt Nam; hoặc ii) doanh nghiệp nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam nhưng tổ chức hoạt động thương mại, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam. Hai cách hiểu này dẫn đến hai phương án thực thi hoàn toàn khác nhau. Trên thực tế, một bộ phận khá lớn pháp luật cạnh tranh trên thế giới đều có phạm vi điều chỉnh xuyên biên giới và có đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động kinh doanh gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh nội địa của các nước đó. Tuy nhiên, việc thực thi các điều khoản này còn rất hạn chế, có hiệu quả không cao, tốn nhiều nguồn lực của cơ quan quản lý cạnh tranh. - Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh để bảo đảm tính thống nhất, toàn diện và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. - Thứ ba, cần xem xét lại và hoàn thiện về mặt nội dung các quy định về phân biệt đối xử của hiệp hội trong Luật Cạnh tranh. 4.2. Các giải pháp hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật cạnh tranh a. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan tố tụng cạnh tranh (Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh) Khi Luật Cạnh tranh được sửa đổi, thì nên xây dựng mô hình cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh trực thuộc Chính phủ trên cơ sở xóa bỏ mô hình cũ, thành lập một mô hình mới trên cơ sở nhập Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh (như hầu hết các quốc gia) hiện nay bởi những lý do sau đây: Thứ nhất, việc thành lập cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh độc lập trực thuộc Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho việc huy động nguồn ngân 114 sách thông qua hoạt động một cách độc lập, tăng thêm tính tự chủ của cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh. Thứ hai, cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh là một thiết chế để đảm bảo thực thi Luật Cạnh tranh. Trên thực tế, Luật Cạnh tranh thường xuyên được đề cập đến là luật khung, hoặc được xem là nguyên tắc cơ bản để xây các quy định chuyên ngành trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy, để thực thi chính sách cạnh tranh nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với các cơ quan quản lý chuyên ngành. Thứ ba, với vị trí độc lập của một cơ quan trực thuộc Chính phủ giúp đảm bảo và thúc đẩy việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và khả năng chịu trách nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về việc tuyển dụng, bổ nhiệm cũng như đào tạo nhân sự, cũng như tự chủ về mặt ngân sách hoạt động sẽ đảm bảo cho cơ quan cạnh tranh có thực quyền cao hơn. Thứ tư, với xu hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, sự cạnh tranh trên thị trường Việt Nam ngày càng gay gắt, vì vậy trong tương lai, chắc chắn số vụ vi phạm pháp luật cạnh tranh sẽ tăng lên một cách đáng kể. Điều này đòi hỏi quy mô của cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh phải được mở rộng và tăng cường về tài chính và nhân lực nhằm thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ được giao. b. Thiết lập cơ chế phối kết hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và các cơ quan hữu quan, đặc biệt là cơ quan quản lý ngành Ở Việt Nam hiện nay, việc cung cấp thông tin phục vụ điều tra các vụ việc cạnh tranh, đặc biệt là vụ việc hạn chế cạnh tranh là rất khó khăn vì chưa có một cơ sở dữ liệu thật sự chuẩn xác về thị trường, về hàng hóa, về giá cả Hệ thống dữ liệu ở Việt Nam trong lĩnh vực nào thường 115 Thực tiễn và thách thức trong chuyển hóa pháp luật tại Việt Nam: Chia sẻ kinh nghiệm của Liên minh châu Âu Challenges and practices of legal transplants in Viet Nam: Sharing European experiences chỉ do hệ thống cơ quan quản lý về lĩnh vực đó nắm giữ dẫn tới việc chưa có một nguồn tổng hợp chính xác. Điều này đặc biệt gây khó khăn cho các cơ quan điều tra các vụ việc cạnh tranh. Bên cạnh đó, sự phối kết hợp giữa các cơ quan bộ ngành chỉ mới dừng lại ở mức tiền lệ, chưa có văn bản hợp tác chính thức. Cho nên, việc cung cấp thông tin của các cơ quan bộ ngành cho cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc điều tra các vụ việc cạnh tranh, đặc biệt là vụ việc hạn chế cạnh tranh có tính chất vô cùng phức tạp vì phải cần đến những sô liệu, thông tin mà chỉ có thể thu thập được thông qua các cơ quan quản lý chuyên ngành như quản lý thị trường, cơ quan thuế, công an kinh tế vấn đề đặt ra ở đây là để có thể điều tra đi đến một kết luận chính xác về một vụ việc cạnh tranh làm cơ sở cho việc ra quyết định xử lý đúng pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền điều tra phải có sự hợp tác, phối kết hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để xử lý tốt các vụ việc cạnh tranh cũng như dự báo được tình hình liên quan đến xu hướng thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
File đính kèm:
- chuyen_hoa_phap_luat_va_cac_van_de_o_viet_nam_phan_1.pdf