Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện

Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích các vấn đề pháp

lý quan trọng về chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, bao gồm: (i)

Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh; (ii) Nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị

cáo và điều kiện nhận bảo lĩnh của cá nhân, cơ quan, tổ chức; (iii) Trách

nhiệm pháp lý của các chủ thể; (iv) Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo

lĩnh; (v) Thủ tục áp dụng bảo lĩnh và các trường hợp huỷ bỏ áp dụng bảo

lĩnh. Thông qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy

định của pháp luật tố tụng hình sự về chế định bảo lĩnh

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện trang 1

Trang 1

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện trang 2

Trang 2

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện trang 3

Trang 3

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện trang 4

Trang 4

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện trang 5

Trang 5

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 3620
Bạn đang xem tài liệu "Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện

Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện
 18 
tuổi, sau khi quyết định tạm giam mà có đủ 
căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt 
tiền để bảo đảm, cơ quan THTT cần thay thế 
ngay biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo 
lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm7.
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
76 Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
Trên thực tế, do chưa có văn bản hướng 
dẫn của cơ quan có thẩm quyền về tiêu chí 
áp dụng biện pháp bảo lĩnh, tạm giam vẫn là 
lựa chọn an toàn của cơ quan THTT. Thậm 
chí có những bị can, bị cáo thuộc loại tội 
phạm ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, 
phạm tội lần đầu có yêu cầu bảo lĩnh nhưng 
vẫn không được cơ quan THTT chấp thuận. 
Ngược lại, có trường hợp cơ quan THTT 
“mạnh dạn” áp dụng bảo lĩnh cho bị can 
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ, trong 
vụ án MobiFone mua 95% cổ phần của 
AVG, bị can Phạm Thị Phương Anh - cựu 
Phó Tổng giám đốc MobiFone bị khởi tố về 
tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng 
vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng 
quy định tại khoản 3 Điều 220 Bộ luật hình 
sự năm 2015 có mức cao nhất của khung 
hình phạt lên đến 20 năm - thuộc loại tội 
phạm đặc biệt nghiêm trọng đã được thay 
đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh sau 
hơn 9 tháng bị tạm giam8. Trong trường hợp 
này, bảo lĩnh tuy không trái với quy định 
về căn cứ áp dụng bảo lĩnh, nhưng lại thiếu 
công bằng với những trường hợp có tính 
chất, mức độ nguy hiểm ít hơn nhiều, nhân 
thân tốt nhưng lại không được chấp thuận.
Để khắc phục bất cập nêu trên, tác giả 
cho rằng, Tòa án nhân dân Tối cao cần ban 
hành văn bản hướng dẫn căn cứ áp dụng biện 
pháp bảo lĩnh theo hướng sau: 
- Ưu tiên áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay 
thế cho biện pháp tạm giam đối với bị can, bị 
cáo thoả mãn các điều kiện như: (i) bị can, 
bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng; tội nghiêm 
trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý; (ii) bị 
can, bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, 
có nơi cư trú rõ ràng, thành khẩn khai báo 
Các trường hợp còn lại, căn cứ vào tính chất, 
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và 
8. Thái Sơn, Mở rộng điều tra vụ AVG: Khởi tố thêm 5 lãnh đạo MobiFone, https://thanhnien.vn/thoi-su/mo-
rong-dieu-tra-vu-avg-khoi-to-them-5-lanh-dao-mobifone-1118949.html, truy cập ngày 20/3/2020. Kim Anh, 
Vụ MobiFone mua AVG: Truy tố 2 nguyên Bộ trưởng và 12 đồng phạm, 
Vu-MobiFone-mua-AVG-Truy-to-2-nguyen-Bo-truong-va-12-dong-pham-566245/, truy cập ngày 20/3/2020.
nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan THTT 
vẫn có thể quyết định áp dụng biện pháp bảo 
lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam; 
- Không áp dụng biện pháp bảo lĩnh 
thay thế cho biện pháp tạm giam như: bị 
can, bị cáo có nhân thân xấu; phạm tội đặc 
biệt nghiêm trọng do cố ý; đối tượng là chủ 
mưu, cầm đầu; bị bắt theo quyết định truy 
nã; phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái 
phạm nguy hiểm 
3.	Nghĩa	vụ	cam	đoan	của	bị	can,	bị	cáo	và	
điều	kiện	nhận	bảo	 lĩnh	của	cá	nhân,	cơ	
quan,	tổ	chức
Thứ nhất, nghĩa vụ cam đoan của bị can, 
bị cáo.
Bộ luật TTHS năm 2003 chỉ đặt ra nghĩa 
vụ cam đoan đối với cá nhân, tổ chức nhận 
bảo lĩnh mà thiếu các quy định về nghĩa vụ 
cam đoan của bị can, bị cáo được bảo lĩnh. 
Rõ ràng, đây là một thiếu sót rất lớn vì để 
được áp dụng bảo lĩnh, bị can, bị cáo cũng 
cần có những cam đoan cụ thể về việc tuân 
thủ các quy định của pháp luật làm cơ sở để 
đánh giá việc chấp hành và áp dụng lại biện 
pháp tạm giam khi bị can, bị cáo có những 
hành vi vi phạm nghĩa vụ cam đoan, gây 
ảnh hưởng tới hoạt động tố tụng trong thời 
gian được bảo lĩnh. Khắc phục hạn chế này, 
khoản 3 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015 
đã quy định cụ thể về nghĩa vụ cam đoan 
của bị can, bị cáo. Theo đó, bị can, bị cáo 
được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực 
hiện các nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập, 
trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc 
do trở ngại khách quan; không bỏ trốn hoặc 
tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng 
ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, 
cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, 
giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, 
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 77
tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không 
đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, 
bị hại, người tố giác tội phạm và người thân 
thích của những người này.
Thứ hai, điều kiện nhận bảo lĩnh của cá 
nhân, cơ quan, tổ chức.
Pháp luật TTHS hiện hành ghi nhận bảo 
lĩnh được thực hiện dưới hai hình thức: cơ 
quan, tổ chức bảo lĩnh và cá nhân bảo lĩnh9. 
Bộ luậtTTHS năm 2015 đã quy định chặt 
chẽ và chi tiết điều kiện nhận bảo lĩnh của 
cá nhân. Cụ thể, cá nhân nhận bảo lĩnh phải 
đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau: (i) Cá nhân 
là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, 
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập 
ổn định và có điều kiện quản lý người được 
bảo lĩnh; (ii) Bị can, bị cáo được bảo lĩnh là 
người thân thích của họ; (iii) Có ít nhất hai 
người cùng nhận bảo lĩnh và (iv) Làm giấy 
cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các 
nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ 
luậtTTHS năm 2015 có xác nhận của chính 
quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư 
trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm 
việc, học tập. 
Tuy nhiên, Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn 
chưa quy định về điều kiện nhận bảo lĩnh của 
cơ quan, tổ chức. Vì vậy, tác giả cho rằng, văn 
bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao 
cần quy định cụ thể điều kiện nhận bảo lĩnh 
của cơ quan, tổ chức. Theo đó, cơ quan, tổ 
chức không được nhận bảo lĩnh cho bị can, bị 
cáo là người của cơ quan, tổ chức mình trong 
các trường hợp: cơ quan nhà nước đang áp 
dụng thủ tục giải thể theo quyết định của cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền; doanh nghiệp 
đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh 
toán hoặc đang bị áp dụng thủ tục giải quyết 
phá sản; hợp tác xã đang bị áp dụng thủ tục 
giải thể; doanh nghiệp nước ngoài không có 
chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam 
9. Khoản 2 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015.
10. Nghị định có sự nhầm lẫn khi sử dụng thuật ngữ; cần lưu ý rằng bảo lãnh và bảo lĩnh là hai chế định hoàn 
Việc quy định cụ thể về điều kiện nhận 
bảo lĩnh của cơ quan, tổ chức như trên là rất 
cần thiết để đảm bảo việc thực hiện các nghĩa 
vụ khi nhận bảo lĩnh, đồng thời tránh tình 
trạng lúng túng khi áp dụng trên thực tế.
4.	Trách	nhiệm	pháp	lý	của	bị	can,	bị	cáo	
và	chủ	thể	nhận	bảo	lĩnh
Hiện nay, để được cơ quan có thẩm 
quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, bị can, bị 
cáo và chủ thể nhận bảo lĩnh đều phải làm 
giấy cam đoan theo quy định của pháp luật 
TTHS, đi kèm với đó là các trách nhiệm pháp 
lý khi vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Bị can, 
bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan 
thực hiện các nghĩa vụ như có mặt theo giấy 
triệu tập, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm 
tội, tiêu huỷ chứng cứ Trường hợp bị can, 
bị cáo vi phạm các nghĩa vụ đã cam đoan 
thì đương nhiên bị tạm giam. Chủ thể nhận 
bảo lĩnh cũng phải làm giấy cam đoan có xác 
nhận của người đứng đầu (đối với cơ quan, tổ 
chức); xác nhận của chính quyền xã, phường, 
thị trấn nơi cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi 
làm việc, học tập (đối với cá nhân) với nội 
dung không để bị can, bị cáo vi phạm các 
nghĩa vụ đã cam đoan. Cơ quan, tổ chức, cá 
nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm 
nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức 
độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của 
pháp luật. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP 
ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt 
vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, 
trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã 
hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống 
bạo lực gia đình đã quy định mức phạt tiền từ 
1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với 
hành vi “vi phạm các quy định về việc chấp 
hành biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm 
giam, bảo lãnh10, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt 
tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm hoặc có 
các hành vi vi phạm các biện pháp ngăn chặn 
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
78 Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
khác theo quy định của pháp luật”11. Tác giả 
cho rằng, so với tính chất và mức độ vi phạm, 
mức phạt tiền này là quá thấp, chưa đủ sức để 
“răn đe”, phòng ngừa vi phạm có thể xảy ra. 
Ở một số nước trên thế giới, chế tài xử phạt 
trong trường hợp người nhận bảo lĩnh không 
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình có tính 
nghiêm khắc hơn rất nhiều12, thậm chí có thể 
bị truy cứu trách nhiệm hình sự13. Nhằm mục 
đích phòng ngừa vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh, 
tác giả cho rằng, cần sửa đổi quy định của 
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi 
phạm hành chính đối với hành vi vi phạm các 
quy định về chấp hành biện pháp ngăn chặn 
nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng 
theo hướng: tăng mức xử phạt tiền lên gấp 
nhiều lần để ràng buộc trách nhiệm của chủ 
thể nhận bảo lĩnh, nâng cao ý thức chấp hành 
pháp luật, đồng thời đảm bảo mức phạt tiền 
có sự tương xứng với mức độ vi phạm và hậu 
quả nghiêm trọng có thể xảy ra (người được 
bảo lĩnh bỏ trốn, tiếp tục phạm tội).
5.	 Thẩm	 quyền	 áp	 dụng	 biện	 pháp	 bảo	
lĩnh;	trình	tự,	thủ	tục	áp	dụng	bảo	lĩnh	và	
các	trường	hợp	huỷ	bỏ	áp	dụng	bảo	lĩnh
Thứ nhất, thẩm quyền áp dụng biện 
pháp bảo lĩnh.
toàn khác nhau. 
11. Điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP.
12. Tham khảo: Khoản 4 Điều 103 Bộ luật TTHS Nga quy định: Trong trường hợp người nhận bảo lĩnh không 
thực hiện nghĩa vụ của mình thì họ có thể bị phạt một khoản tiền đến 100 lần mức thu nhập tối thiểu. https://
www.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/ru/ru065en.pdf, truy cập ngày 07/4/2020.
13. Tham khảo: Điều 70 Bộ luật TTHS Trung Quốc quy định: Trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo 
lĩnh của mình, thì người bảo lĩnh sẽ bị phạt và nếu hành vi cấu thành tội phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm 
hình sự theo quy định của pháp luật, https://www.chinalawtranslate.com/en/criminal-procedure-law-2018/, 
truy cập ngày 12/4/2020.
14. Khoản 4 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015.
15. Nguyễn Thành Giang, Chánh án có quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền... không?,
https://kiemsat.vn/chanh-an-co-quyen-ap-dung-bien-phap-bao-linh-dat-tien-khong-50394.html, truy cập 
ngày 22/5/2020. Trần Văn Hùng, Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và một số 
lưu ý khi áp dụng, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2348, truy cập ngày 
22/5/2020.
16. Khoản 1 Điều 278 Bộ luật TTHS năm 2015.
17. Khoản 1 Điều 347 Bộ luật TTHS năm 2015.
Theo quy định hiện hành, những người 
có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh 
bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ 
quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó 
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và 
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát 
quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án 
Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh 
án Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán chủ 
tọa phiên tòa; Hội đồng xét xử14. Tuy nhiên, 
có ý kiến cho rằng, Chánh án, Phó Chánh 
án không có thẩm quyền áp dụng biện pháp 
bảo lĩnh15. Bởi lẽ, quy định về nhiệm vụ, 
quyền hạn cụ thể khi tiến hành giải quyết 
vụ án hình sự của Chánh án, Phó Chánh 
án liên quan đến thẩm quyền áp dụng biện 
pháp ngăn chặn, Điều 44 Bộ luậtTTHS năm 
2015 chỉ đề cập đến thẩm quyền áp dụng, 
thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam, mà 
không đề cập đến thẩm quyền áp dụng biện 
pháp bảo lĩnh cũng như các biện pháp ngăn 
chặn khác. Thêm vào đó, quy định về thẩm 
quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp 
ngăn chặn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử 
sơ thẩm16 và xét xử phúc thẩm17 đều trao 
quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp 
ngăn chặn nói chung và biện pháp bảo lĩnh 
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 79
nói riêng sau khi thụ lý vụ án cho Thẩm 
phán chủ tọa phiên tòa. Riêng đối với biện 
pháp tạm giam, thẩm quyền thuộc về Chánh 
án, Phó Chánh án tòa án.
Theo tác giả, Điều 44 Bộ luật TTHS 
năm 2015 đã quy định theo hướng mở, 
ngoài liệt kê các nhiệm vụ, quyền hạn cụ 
thể, tại điểm e điều này còn quy định Chánh 
án, Phó Chánh án tòa án có thể “tiến hành 
hoạt động tố tụng khác theo quy định của 
Bộ luật TTHS”. Theo quy định hiện hành, 
từ thời điểm thụ lý vụ án, Chánh án tòa án 
có thời hạn 03 ngày để phân công thẩm 
phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án18. 
Như vậy, mặc dù các quy định cụ thể trong 
giai đoạn xét xử đã trao quyền quyết định 
áp dụng biện pháp bảo lĩnh cho thẩm phán 
chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, trong thời hạn 
này, vì chưa có thẩm phán chủ tọa phiên 
tòa nên quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh 
thuộc về Chánh án, Phó Chánh án tòa án. 
Trong trường hợp Chánh án, Phó Chánh 
án tòa án cũng là thẩm phán chủ tọa phiên 
tòa, thì đương nhiên có quyền áp dụng biện 
pháp bảo lĩnh theo các quy định của pháp 
luật TTHS.
Thứ hai, về trình tự, thủ tục áp dụng biện 
pháp bảo lĩnh.
Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ 
thể về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp 
bảo lĩnh nên trong nhiều trường hợp, giấy 
cam đoan của bị can, bị cáo và của chủ thể 
nhận bảo lĩnh có thể được xem là đề nghị 
được bảo lĩnh; cũng có trường hợp, đề nghị 
bảo lĩnh được thể hiện dưới dạng đơn xin 
bảo lĩnh. Điều này vô hình trung làm thiếu 
đi sự thống nhất, gây lúng túng khi áp dụng, 
thi hành trên thực tế. 
Thứ ba, các trường hợp huỷ bỏ áp dụng 
biện pháp bảo lĩnh.
18.Khoản 2 Điều 276 BLTTHS năm 2015.
19. Khoản 2 Điều 125 BLTTHS năm 2015.
20. Điều 125 BLTTHS năm 2015.
Theo quy định của pháp luật TTHS 
hiện hành, việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh 
bị huỷ bỏ khi: (i) Bị can, bị cáo vi phạm 
nghĩa vụ đã cam đoan tại khoản 3 Điều 121 
Bộ luật TTHS năm 2015; (ii) Hết thời hạn 
áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Trong thời hạn 
10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện 
pháp ngăn chặn bảo lĩnh, cơ quan đã đề 
nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn này phải 
thông báo cho Viện kiểm sát để quyết định 
hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn 
khác19; (iii) Vụ án rơi vào các trường hợp 
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn do pháp luật 
quy định20. 
Trên thực tế, ngoài những trường hợp 
trên, có thể xảy ra rất nhiều trường hợp 
không thể tiếp tục áp dụng biện pháp bảo 
lĩnh nhưng lại chưa có hướng dẫn cụ thể về 
cách thức xử lý gây khó khăn và lúng túng 
cho các cơ quan tiến hành tố tụng như: phát 
hiện bị can, bị cáo phạm tội khác trước khi 
áp dụng biện pháp bảo lĩnh; chủ thể nhận bảo 
lĩnh từ chối tiếp tục bảo lĩnh trước khi hết 
thời hạn bảo lĩnh; cá nhân nhận bảo lĩnh bị 
truy cứu trách nhiệm hình sự; cá nhân nhận 
bảo lĩnh chết; cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh 
bị giải thể, phá sản Đây là những trường 
hợp không thể tiếp tục thực hiện bảo lĩnh do 
những nguyên nhân xuất phát từ chính bản 
thân bị can, bị cáo hoặc từ phía cơ quan, tổ 
chức, cá nhân nhận bảo lĩnh nhưng lại chưa 
có cơ sở pháp lý để huỷ bỏ việc áp dụng biện 
pháp bảo lĩnh.
Để đảm bảo áp dụng thống nhất biện 
pháp bảo lĩnh trên thực tế, khắc phục những 
bất cập phát sinh, tác giả cho rằng, Tòa án 
nhân dân tối cao cần ban hành văn bản hướng 
dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục áp dụng biện 
pháp bảo lĩnh; về các trường hợp biện pháp 
bảo lĩnh bị huỷ bỏ  

File đính kèm:

  • pdfche_dinh_bao_linh_trong_to_tung_hinh_su_va_huong_hoan_thien.pdf