Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam

Dịch vụ phân phối là một trong những nội dung quan trọng trong các cam

kết mở cửa thị trường thương mại của các quốc gia, vùng lãnh thổ. Những cam kết trong lĩnh

vực dịch vụ phân phối có tác động quan trọng đến sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài

vào hoạt động phân phối hàng hóa trên lãnh thổ quốc gia. Với việc Việt Nam vừa ký kết hai

Hiệp định thương mại tự do quan trọng là CPTPP (đã phát sinh hiệu lực đối với Việt Nam) và

EVFTA (chưa phát sinh hiệu lực đối với Việt Nam), bài viết đi sâu vào phân tích một cách hệ

thống các cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam trong hai hiệp định này và so sánh với

qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành để đánh giá sự phù hợp của pháp luật Việt Nam

với các cam kết đó. Sau khi nhận diện được những điểm phù hợp và chưa phù hợp của pháp

luật Việt Nam, bài viết sẽ nêu ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật theo hướng bảo đảm sự

phù hợp và tận dụng một cách hiệu quả các bảo lưu của Việt Nam về dịch vụ phân phối trong

các hiệp định này

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 1

Trang 1

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 2

Trang 2

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 3

Trang 3

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 4

Trang 4

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 5

Trang 5

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 6

Trang 6

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 7

Trang 7

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 8

Trang 8

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 9

Trang 9

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang xuanhieu 3520
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam

Cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại các hiệp định CPTPP  và EVFTA trong so sánh với pháp luật Việt Nam
 chưa 
có tiêu chuẩn xác định. Nghị định 09/2018/NĐ-CP mới chỉ dừng lại ở việc mô tả cửa hàng 
tiện lợi, chứ chưa đưa ra các tiêu chuẩn để đánh giá. 
b. Đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với các cam kết trong CPTPP và EVFTA 
Phần này sẽ tập trung đánh giá sự phù hợp (bao gồm cả không phù hợp) của pháp luật 
Việt Nam với các cam kết trong CPTPP và EVFTA. Việc đánh giá sẽ được chia thành 2 mảng 
nội dung: (1) Dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ; và (2) Dịch vụ nhượng quyền thương mại. 
(1) Dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ 
Đối với các mặt hàng được mở cửa thị trường 
Có thể thấy trong CPTPP, đường và gạo không có trong danh mục mà Việt Nam bảo 
lưu, không cam kết mở cửa. Đây là điểm khác biệt so với cam kết trong WTO cũng như trong 
EVFTA. Nếu EVFTA phát sinh hiệu lực trước CPTPP, thì hoạt động dịch vụ phân phối của 
nhà đầu tư nước ngoài sẽ được mở sang đường và gạo, căn cứ theo nguyên tắc MFN trong 
EVFTA. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, CPTPP đã phát sinh hiệu lực trước EVFTA. Do vậy, 
các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) sẽ không được hưởng ưu đãi tối huệ quốc về mở cửa 
thị trường đối với gạo và đường trong trường hợp này. 
Nghị định 09/2018/NĐ-CP chỉ qui định trường hợp cấp Giấy phép kinh doanh đối với 
hoạt động bán lẻ gạo, đường, mà không có qui định về cấp Giấy phép kinh doanh đối với hoạt 
động bán buôn. Do vậy, trường hợp tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký kinh 
doanh bán buôn hàng hóa thì sẽ được thực hiện theo đăng ký kinh doanh. Còn đối với hoạt 
động bán lẻ, ngoài việc đăng ký kinh doanh bán lẻ các sản phẩm này, tổ chức kinh tế có phải 
được cấp Giấy phép kinh doanh hoạt động bán buôn. 
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã phù hợp với cam kết của CPTPP vì cho phép hoạt 
động phân phối bán buôn, bán lẻ gạo, đường của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, 
với các điều kiện quản lý nhà nước nhất định, chứ không đóng cửa thị trường đối với 02 mặt 
20 Đó là các tiêu chí: (1) Diện tích kinh doanh; (2) Danh mục hàng hóa kinh doanh với số lượng mặt hàng tùy 
theo hạng siêu thị: Đối với siêu thị hạng I là từ 20000 tên hàng trở lên; Đối với siêu thị hạng II là từ 10000 tên 
hàng trở lên; Đối với siêu thị hạng III là từ 4000 tên hàng trở lên; (3) Công trình siêu thị, trang thiết bị kỹ thuật 
bảo đảm yêu cầu; (4) Kho và thiết bị kỹ thuật bảo quản, đóng góp, bán hàng, thanh toán và quản lý kinh doanh; 
(5) Cách thức tổ chức, bố trí hàng hóa, nơi bảo quản hành lý cho khách hàng, các dịch vụ. 
1001 
hàng này. Cụ thể nhà đầu tư nước ngoài cần đáp ứng điều kiện về tiếp cận thị trường tại điều 
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong trường hợp này là tại CPTPP. 
So với EVFTA, liên quan đến mặt hàng gạo và đường, pháp luật Việt Nam được đánh 
giá là phù hợp. Tuy nhiên, vì gạo và đường không được cam kết trong EVFTA, nên sẽ được 
áp dụng chung đối với trường hợp là mặt hàng chưa mở cửa trong nhiều điều ước quốc tế. 
Trong cả CPTPP và EVFTA, Việt Nam bảo lưu việc duy trì các biện pháp liên quan 
đến dịch vụ xuyên biên giới đối với thuốc lá và xì gà, ấn phẩm (bao gồm sách, báo và tạp 
chí), kim loại quí và đá quí, thuốc và dược phẩm (không bao gồm các sản phẩm bổ dưỡng phi 
dược phẩm dưới dạng viên nén, viên con nhộng hoặc bột), thuốc nổ, dầu thô và dầu đã qua 
chế biến. Trong khi đó, Nghị định 09/2018 đã dỡ bỏ thuốc nổ, thuốc lá, xì gà, kim loại quí và 
đá quí, thuốc nổ và dược phẩm ra khỏi danh mục các hàng hóa bị cấm phân phối. Như vậy, so 
với 02 Hiệp định trên, pháp luật Việt Nam đã phù hợp, thậm chí còn mở cửa rộng hơn so với 
qui định của CPTPP và EVFTA, cho phép các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được 
phân phối bán buôn, bán lẻ các mặt hàng này trên lãnh thổ Việt Nam với khi đáp ứng các điều 
kiện nhất định. 
Đối với điều kiện ENT 
Xét ở mức độ cam kết, nếu so với cam kết trong WTO, có thể thấy, cam kết trong 
EVFTA và CPTPP đã nới lỏng khi cho phép ENT được miễn trong một số trường hợp nhất 
định và sẽ bị bỏ sau 05 năm kể từ khi 2 Hiệp định có hiệu lực. Pháp luật Việt Nam hiện nay 
về cơ bản đã tương thích so với cam kết trong EVFTA và CPTPP. 
Tuy nhiên, qui định về việc áp dụng ENT đối với siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi trong 
Nghị định 09/2018 dường như đặt thêm trường hợp kiểm tra ENT so với cam kết của Việt 
Nam trong EVFTA và trong CPTPP. Việc đặt thêm trường hợp kiểm tra ENT có thể vi phạm 
cam kết của Việt Nam trong EVFTA và CPTPP. 
Về các tiêu chí để kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT)21, pháp luật Việt Nam về cơ bản là 
phù hợp với EVFTA và CPTPP. Tuy nhiên, cần phải xem xét lại các tiêu chí: Khả năng đóng 
góp của cơ sở bán lẻ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể: Tạo việc làm cho lao động 
trong nước; Đóng góp cho sự phát triển và hiện đại hóa ngành bán lẻ trong khu vực thị trường 
địa lý; Cải thiện môi trường và điều kiện sống của dân cư trong khu vực thị trường địa lý; Khả 
năng và mức độ đóng góp cho ngân sách nhà nước. Các tiêu chí này có thể được xem là tiêu chí 
gây khó khăn cho việc đặt cơ sở bán lẻ của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Để tránh 
21 Đó là các tiêu chí sau: Quy mô của khu vực thị trường địa lý chịu ảnh hưởng khi cơ sở bán lẻ hoạt động; Số 
lượng các cơ sở bán lẻ đang hoạt động trong khu vực thị trường địa lý; Tác động của cơ sở bán lẻ tới sự ổn định 
của thị trường và hoạt động kinh doanh của các cơ sở bán lẻ, chợ truyền thống trong khu vực thị trường địa lý; 
Ảnh hưởng của cơ sở bán lẻ tới mật độ giao thông, vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy trong khu vực thị 
trường địa lý; Khả năng đóng góp của cơ sở bán lẻ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể: Tạo việc làm cho 
lao động trong nước; Đóng góp cho sự phát triển và hiện đại hóa ngành bán lẻ trong khu vực thị trường địa lý; 
Cải thiện môi trường và điều kiện sống của dân cư trong khu vực thị trường địa lý; Khả năng và mức độ đóng 
góp cho ngân sách nhà nước. 
1002 
trường hợp vi phạm cam kết trong hai Hiệp định này, có thể viện dẫn Điều 4 của Nghị định 
09/2018/NĐ-CP. Cụ thể, Điều 4 nêu rõ ―trường hợp Điều ước quốc tế qui định tại Nghị định 
này thì áp dụng qui định của Điều ước quốc tế đó.‖ Tuy nhiên, việc viện dẫn này chỉ đúng về 
mặt lý thuyết. Còn về mặt thực thi, việc áp dụng Điều ước quốc tế còn phụ thuộc vào cơ chế áp 
dụng Điều ước quốc tế trên lãnh thổ Việt Nam là áp dụng trực tiếp hay áp dụng gián tiếp22. Đối 
với Hiệp định CPTPP, ngày 12/11/2018, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết phê 
chuẩn Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên 
quan. Ban hành kèm theo Nghị quyết Phụ lục 2 về Các cam kết/nhóm cam kết trong Hiệp định 
CPTPP được áp dụng trực tiếp khi Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam. Trong Danh mục 
các cam kết được áp dụng trực tiếp, có cam kết về các phân ngành dịch vụ trong bảng Các biện 
pháp không tương thích (NCM) I, II và III. Như vậy, pháp luật Việt Nam được coi là phù hợp 
với cam kết. Tuy nhiên, cam kết CPTPP vẫn để độ mở cho pháp luật Việt Nam được qui định 
chi tiết hơn về điều kiện ENT. Do vậy, để có thể áp dụng được tốt qui định của CPTPP cần phải 
có sự qui định rõ trong pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Đối với EVFTA, để tránh tình trạng 
không tương thích, Nghị quyết phê chuẩn EVFTA có thể đặt cơ chế áp dụng trực tiếp cho cam 
kết này của Việt Nam khi các hiệp định này phát sinh hiệu lực. 
Về các thủ tục quản lý nhà nước 
Các thủ tục thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động bán buôn, bán lẻ và đối với 
việc thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về cơ bản phù hợp với cam kết trong 
CPTPP và EVFTA. 
 (2) Dịch vụ nhượng quyền thương mại 
Về cơ bản, pháp luật Việt Nam phù hợp với cam kết trong CPTPP và EVFTA. Như đã 
nêu ở trên pháp luật Việt Nam không có qui định riêng áp dụng đối với tổ chức kinh tế có vốn 
đầu tư nước ngoài khi thực hiện nhượng quyền thương mại. 
Trong CPTPP, Việt Nam không có bảo lưu về các trường hợp không tương thích dành 
riêng cho nhượng quyền thương mại. Yêu cầu đặt ra trong EVFTA chỉ liên quan đến việc hiện 
diện chi nhánh của nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện dịch vụ nhượng quyền trên lãnh thổ 
Việt Nam. Yêu cầu này cũng không có trong qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành. 
Như vậy, qui định của Việt Nam đã phù hợp với cam kết trong cả CPTPP và EVFTA. 
Nếu phân tích kỹ hơn thì hiện trạng qui định của Việt Nam hiện nay là chưa làm điều được 
phép làm. Cụ thể, đối với cam kết trong EVFTA, Việt Nam đã đặt ra bảo lưu về nghĩa vụ đãi 
ngộ quốc gia, yêu cầu Trưởng chi nhánh của doanh nghiệp mỗi Bên phải thường trú tại Việt 
Nam. Tuy nhiên, yêu cầu này lại không có trong qui định hiện hành của Việt Nam. 
22 Cụ thể, căn cứ Điều 6 Luật Điều ước quốc tế 2016, cơ chế áp dụng Điều ước quốc tế có thể được thực hiện 
theo 02 phương thức: (1) Áp dụng trực tiếp: căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc 
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định 
áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp qui định 
của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; (2) Áp dụng gián tiếp: thông qua việc sửa đổi, bổ sung, 
bãi bỏ hoặc ban hành văn bản qui phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó. 
1003 
4. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện qui định của Việt Nam về dịch vụ phân phối 
Trên cơ sở các phân tích nêu trên, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện 
qui định của Việt Nam về dịch vụ phân phối của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước 
ngoài như sau: 
Thứ nhất, cụ thể hóa các bảo lưu cho phép Việt Nam được qui định cụ thể các điều 
kiện áp dụng đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong CPTPP và EVFTA. Đối 
với những cam kết trong CPTPP, những trường hợp không tương thích đã được khắc phục bởi 
cơ chế áp dụng trực tiếp các phân ngành dịch vụ trong Danh mục các biện pháp không tương 
thích tại Phụ lục I và Phụ lục II của Hiệp định CPTPP. Do vậy, không cần đề xuất chỉnh sửa 
pháp luật Việt Nam để tương thích với Hiệp định CPTPP trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, vấn 
đề đặt ra là có một số cam kết lại cho phép pháp luật Việt Nam được quyền qui định thêm, thì 
nên tận dụng các cam kết này bằng việc qui định cụ thể hóa các bảo lưu này. Nói cách khác, 
đối với những trường hợp pháp luật Việt Nam đã tương thích, nhưng lại có mức độ mở hơn so 
với cam kết thì cần có sự chỉnh sửa pháp luật Việt Nam cho phù hợp. Cụ thể: 
(1) Liên quan đến trường hợp kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT), để bảo đảm sự phù hợp 
với cam kết trong CPTPP và EVFTA thì cần áp dụng trực tiếp các cam kết này. Bởi trong qui 
định của pháp luật Việt Nam hiện hành, việc thực hiện ENT đối với việc lập cửa hàng tiện lợi 
và siêu thị mini của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ là không phù hợp với CPTPP 
và EVFTA. Đối với CPTPP, Việt Nam đã áp dụng trực tiếp cam kết này, trong Phu lục 2 của 
Nghị Quyết 72/2018/NQ-QH. Còn đối với EVFTA, Việt Nam cũng cần qui định về việc áp 
dụng trực tiếp cam kết này trong nghị quyết phê chuẩn EVFTA của Quốc hội. 
(2) Đối với tiêu chí đánh giá ENT, pháp luật Việt Nam cần đặt trọng số các tiêu chí 
đánh giá cho phù hợp với cam kết trong CPTPP và EVFTA. Ở cả hai hiệp định này, yêu cầu về 
các tiêu chí đánh giá chỉ dừng ở mức độ khung, tức là cho phép pháp luật Việt Nam được quyền 
qui định chi tiết, với điều kiện bảo đảm mức độ khung đó. Do vậy, để bảo đảm phù hợp với cam 
kết của CPTPP và EVFTA, có thể vẫn giữ các tiêu chí đánh giá theo qui định của Nghị định 
09/2018 nhưng có thể cân đối trọng số của các tiêu chí, để bảo đảm rằng tiêu chí đánh giá chính 
phù hợp với cam kết trong CPTPP và EVFTA. Cụ thể, đặt trọng số lớn đối với các tiêu chí 
chính: Số lượng nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện trong một khu vực địa lý, sự ổn định của 
thị trường và qui mô địa lý. Các tiêu chí khác nên để trọng số ít hơn khi đánh giá ENT trong 
trường hợp của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thuộc CPTPP và EVFTA. 
(3) Đề xuất áp dụng trực tiếp những cam kết cụ thể của Việt Nam trong các ngành 
dịch vụ được nêu trong các Biểu Cam kết 8A-1 và 8A-2 của Việt Nam trong EVFTA. 
(4) Bổ sung điều kiện về Trưởng chi nhánh của nhà đầu tư nước ngoài trong trường 
hợp nhượng quyền thương mại phải là người thường trú tại Việt Nam. Đây là điều kiện mà 
Việt Nam đưa ra trong cam kết với EVFTA. Tuy trong CPTPP Việt Nam không có bảo lưu 
điều kiện về nơi thường trú của Trưởng chi nhánh trong Danh mục biện pháp không tương 
thích, nhưng việc đặt ra điều kiện này không làm ảnh hưởng đến cam kết của Việt Nam trong 
CPTPP vì cam kết này được áp dụng trực tiếp. 
1004 
(5) Bổ sung các điều kiện về dịch vụ phân phối đối với các mặt hàng thuốc nổ, thuốc 
lá, xì gà, kim loại quí và đá quí, thuốc nổ và dược phẩm trong pháp luật chuyên ngành để tận 
dụng được một cách tối đa hiệu quả của các bảo lưu của Việt Nam trong các FTA. 
Thứ hai, Bộ Công Thương với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này 
cần thực hiện một số hoạt động nhằm tạo thuận lợi việc thực hiện hoạt động phân phối trên 
lãnh thổ Việt Nam, cụ thể như sau: 
(1) Ban hành danh mục hàng hóa không được quyền phân phối đối với tổ chức kinh 
tế có vốn đầu tư nước ngoài theo các cam kết quốc tế chung và một số ngoại lệ trong các hiệp 
định CPTPP và EVFTA. 
(2) Ban hành danh mục các biện pháp áp dụng đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư 
nước ngoài khi thực hiện hoạt động dịch vụ phân phối trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc có thể 
ban hành dưới hình thức Hướng dẫn đối với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài khi 
tham gia vào lĩnh vực dịch vụ phân phối tại Việt Nam. 
(3) Đề xuất lên Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 09/2018 với các kiến 
nghị đã nêu ở phần trên. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thanh Tâm, “Tổng quan về các FTA thế hệ mới”, trên trang điện tử: 
 truy cập ngày 
15/8/2018; 
2. Lê Thị Thúy, ―Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới: cơ hội và thách thức đối với 
Việt Nam‖, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 5 (114) 2017, trang 19-29. 
3. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) 
4. Hiệp định thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA) 
5. Luật Đầu tư năm 2014 
6. Luật Điều ước quốc tế 2016 
7. Luật Thương mại 2005 
8. Luật Quản lý ngoại thương 2017 
9. Nghị định 09/2018/NĐ-CP qui định chi tiết Luật Thương mại và Luật Quản lý 
ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan đến mua bán hàng 
hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 
10. Nghị quyết 72/2018/NQ-QH phê chuẩn Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ 
xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện liên quan. 
11. Thông tư 34/2013/TT-BCT công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng 
hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu 
tư nước ngoài tại Việt Nam 
12. Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ Thương mại về việc ban 
hành Quy chế siêu thị, Trung tâm thương mại 

File đính kèm:

  • pdfcam_ket_ve_dich_vu_phan_phoi_cua_viet_nam_tai_cac_hiep_dinh.pdf