Các nhân tố ảnh hưởng đến kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
Tóm tắt
Bài viết dựa trên các lý thuyết nền tảng đó là, lý thuyết ngẫu nhiên, lý thuyết hợp pháp và lý thuyết các
bên liên quan để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến kế toán môi trường (KTMT) trong các doanh nghiệp
sản xuất tại tỉnh Bắc Kạn. Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu của bài viết này, tác giả sử dụng phương
pháp định tính kết hợp phân tích nhân tố khám phá (EFA) bằng cách gửi phiếu khảo sát đến các nhà quản
lý và các nhân viên trong các doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 nhân tố gồm (1) Qui mô
doanh nghiệp, (2) Các bên liên quan; (3) Các qui định; (4) Trình độ; (5) Ngành nghề kinh doanh có ảnh
hưởng đến kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Từ kết quả
nghiên cứu này làm cơ sở để tác giả đề xuất các giải pháp để thúc đẩy các doanh nghiệp trên địa bàn
quan tâm và ứng dụng kế toán môi trường.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng đến kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn
vào đó, kiểm định Barlett có giá trị Pvalue có giá trị bằng 0, như vậy các biến có tương quan với nhau được tính trên phạm vi tổng thể. Hệ số phương sai trích của mô hình đạt 68,374% tức là nhân tố được rút sẽ giải thích được 68,374% sự biến thiên. Như vậy, phân tích nhân tố khám phá (EFA) thích hợp với các dữ liệu và các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể (Gerbing &Andersen,1998), nên được sử dụng cho phân tích tiếp theo. Bảng 3: Kết quả xoay nhân tố Component 1 2 3 4 5 Ngành nghề kinh doanh 3 ,906 Ngành nghề kinh doanh 4 ,905 Ngành nghề kinh doanh 1 ,898 Ngành nghề kinh doanh 2 ,810 Qui mô doanh nghiệp 4 ,878 Qui mô doanh nghiệp 1 ,810 Qui mô doanh nghiệp 2 ,759 Qui mô doanh nghiệp 3 ,752 Qui mô doanh nghiệp 5 ,637 Trình độ 2 ,795 Trình độ 1 ,783 Trình độ 4 ,757 Trình độ 3 ,721 Trình độ 5 ,701 Các bên liên quan 3 ,818 Các bên liên quan 4 ,805 Các bên liên quan 1 ,771 Các bên liên quan 2 ,657 Các qui định 3 ,765 Các qui định 2 ,755 Các qui định 4 ,750 Các qui định 1 ,749 Nguồn: Theo số liệu điều tra của tác giả Sau khi xoay nhân tố ta có 5 nhóm nhân tố. Nhóm nhân tố thứ nhất gồm các biến quan sát: NNKD3, NNKD4, NNKD1, NNKD2. Ta đặt tên nhóm này là Ngành nghề kinh doanh, ký hiệu là NNKD. Nhóm nhân tố thứ hai gồm các biến quan sát: QMDN4, QMDN1, QMDN2, QMDN3, QMDN5 . Ta đặt tên nhóm là Quy mô doanh nghiệp, ký hiệu là QMDN Nhóm nhân tố thứ ba gồm các biến quan sát: TD2, TD1, TD4, TD3, TD5 . Ta đặt tên nhóm là Trình độ, ký hiệu TD. Nhóm nhân tố thứ tư gồm các biến quan sát: CBLQ3, CBLQ4, CBLQ1, CBLQ2. Ta đặt tên nhóm này là Các bên liên quan, ký hiệu là CBLQ. Chuyên mục: Tài chính Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 14 (2020) 71 Nhóm nhân tố thứ năm gồm các biến quan sát: CQD3, CQD2, CQD4, CQD1. Ta đặt tên nhóm này là Các quy định, ký hiệu là CQD Kiểm tra sự hội tụ của các biến Kế toán môi trường Bảng 4: Ma trận thành phần Component 1 KTMT3 ,770 KTMT1 ,744 KTMT2 ,705 KTMT5 ,680 KTMT4 ,680 Nguồn: Theo số liệu điều tra của tác giả Từ kết quả trên ta thấy các biến quan sát đã hội tụ thành một nhóm và các thành phần đều lớn hơn 0,5, ký hiệu nhóm nhân tố này là KTMT. Như vậy, ta đã có đủ điều kiện để tiến hành hồi quy. Kết quả chạy hồi quy như sau Bảng 5: Kết quả hồi quy Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. Collinearity Statistics B Std. Error Beta Tolerance VIF 1 (Constant) ,442 ,127 3,468 ,001 NNKD ,156 ,026 ,233 6,014 ,000 ,663 1,509 QMDN ,186 ,027 ,251 6,966 ,000 ,764 1,308 TD ,117 ,026 ,167 4,464 ,000 ,709 1,410 CBLQ ,171 ,026 ,247 6,682 ,000 ,725 1,378 CQD ,272 ,035 ,297 7,883 ,000 ,698 1,434 Nguồn: Theo số liệu điều tra của tác giả Sau khi có kết quả hồi quy ta hệ số VIF của tất cả các biến độc lập đều nhỏ hơn 2. Như vậy không có hiện tượng đa cộng tuyến ở đây. Mức độ giải thích của mô hình: Kết quả tacó hệ số R2 (R square) là 0,718 và R2 điều chỉnh (adjusted R square) là 0,713. Như vậy mô hình giải thích được 71,3%. Mức độ phù hợp của mô hình: Thông qua kết quả phân tích phương sai ta có tỷ lệ Sig.<0,01, có thể kết luận rằng mô hình đưa ra phù hợp với dữ liệu thực tế. Hay nói cách khác, các biến độc lập có tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc và mức độ tin cậy 99% . Như vậy ta có tất cả các biến độc lập đều tác động dương đến mức độ áp dụng KTMT và các biến này đều có ý nghĩa thống kê. 5. Kết luận và khuyến nghị Thông qua kết quả phân tích, ta thấy được sự tác động thuận chiều, có ý nghĩa thống kê gồm 05 nhân tố: (1) Qui mô doanh nghiệp, (2) Các bên liên quan; (3) Các qui định; (4) Trình độ; (5) Ngành nghề kinh doanh ảnh hưởng đến KTMT ở các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị như sau: Thứ nhất, từ kết quả nghiên cứu cho thấy nhân tố Qui mô doanh nghiệp có ảnh hưởng cùng chiều với KTMT ở các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn, kết quả nghiên cứu ngày phù hợp với nghiên cứu của Mohd Rashdan Sallehuddin, Faudziah Hamin Fadzil (2013), như vậy qui mô doanh nghiệp có ảnh hưởng đến KTMT. Như vậy đối doanh nghiệp có qui mô lớn thì khả năng vận dụng KTMT tốt hơn bởi các điều kiện thuộc qui mô DN như số lượng nhân viên, nguồn vốn...đã phần nào ảnh hưởng đến việc thực hiện KTMT tại DN. Thứ hai, nhân tố Các bên liên quan có tác động cùng chiều đến KTMT tại các doanh nghiệp sản xuất, kết quả của nghiên cứu này tương đồng với nghiên cứu của Mia, A. H (2005) và một số nghiên cứu khác chỉ ra áp lực của các bên liên quan có ảnh hưởng đến KTMT của doanh nghiệp. Do vậy khi có sự vào cuộc nhiệt tình và khắt khe của các bên liên quan sẽ tạo áp lực cho DN sản xuất thực hiện tốt KTMT hơn như: chất lượng sản phẩm, ô nhiễm môi trường, xử lý nước thải, ...đạt qui định tiêu chuẩn mà các bên yêu cầu DN phải thực hiện trong quá trình sản xuất. Thứ ba, nhân tố Các qui định có ảnh hưởng cùng chiều đến việc thực hiện KTMT tại các DN sản xuất trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Đồng thời, thông qua khảo sát định tính, phỏng vấn sâu nhà quản trị đã chỉ ra các nhà quản trị sẽ thực hiện áp Chuyên mục: Tài chính Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 14 (2020) 72 dụng KTMT tại doanh nghiệp khi nhà nước ban hành quy định, thông tư phải thực hiện. Bên cạnh đó kết quả khảo sát cũng cho thấy việc ban hành cưỡng chế của chính phủ có vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện chi phí môi trường giúp cho kế toán môi trường trong doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả của nghiên cứu này tương đồng với kết quả nghiên cứu Herzig (2012) đã lý giải ở các quốc gia đang phát triển việc ứng dụng KTMT thường không cao bằng các nước phát triển bởi vì những nước phát triển có năng lực tài chính và chính sách cưỡng chế đủ mạnh của chính phủ để doanh nghiệp thực hiện. Ở Việt Nam, hiện nay đã có luật bảo vệ môi trường 2014 ban hành để giảm bớt ô nhiễm môi trường do sản xuất của các doanh nghiệp, điều đó cho thấy chính phủ Việt Nam đã và đang rất lỗ lực trong việc ban hành chính sách giúp cho việc quản lý môi trường được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong nội dung của luật bảo vệ môi trường 2014 không qui định về việc vận dụng kế toán chi phí môi trường (ECA), chính vì vậy các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp sản xuất nói riêng thiếu các hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng KTMT vào thực tế. Do đó, để áp dụng KTMT ở doanh nghiệp Việt Nam được hiệu quả cần có sự vào cuộc của các bộ Tài chính, bộ Khoa học Công nghệ phát triển, bộ Tài Nguyên và Môi trường để xây dựng những bộ tiêu chuẩn, quy định và hướng dẫn cụ thể hơn nữa cũng như ban hành các thông số môi trường, chi phí môi trường đối với từng lĩnh vực, từng ngành sản xuất cụ thể làm cơ sở kế toán môi trường, kế toán quản trị trong doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Thứ tư, về phía doanh nghiệp, nhà quản lý cần tăng cường hiểu biết cũng như trình độ của nhân viên kế toán mà kết quả nghiên cứu đã chỉ ra nhân tố Trình độ có ảnh hưởng thuận chiều đến việc thực hiện KTMT. Không những vậy mà ngành nghề kinh doanh của mỗi doanh nghiệp khác nhau thì ảnh hưởng đến KTMT cũng khác nhau. Do vậy, nhà quản trị cần có những chính sách để thúc đẩy chiến lược môi trường tích cực để thực hiện KTMT được tôt nhất. Bởi mỗi doanh nghiệp khi có chiến lược môi trường tích cực điều đó sẽ thúc đẩy các giải pháp nhằm thực hiện hoạt động môi trường được hiệu quả cao nhất. Do đó, muốn áp dụng KTMT đạt kết quả cao cần có sự cam kết của nhà quản lý trong việc thực hiện chiến lược môi trường tích cực cụ thể như; Cử cán bộ kỹ thuật, kế toán môi trường, kế toán quản trị...tham gia học các khóa đào tạo chuyên sâu về KTMT và nhận thức tầm quan trọng của KTMT đối với mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất. Thứ năm, từ kết quả khảo sát thực tế phỏng vấn sâu nhà quản lý và kế toán cho thấy có một số doanh nghiệp không biết đến kế toán môi trường mặc dù họ vẫn đang thực hiện tại doanh nghiệp. Chính vì vậy, để áp dụng KTMT ở các doanh nghiệp Việt đạt hiệu quả cao trong tương lai thì các cơ sở giáo dục cần đưa vào giảng dạy về KTMT với các ngành kế toán, môi trường. Điều này sẽ trang bị cho sinh viên có đầy đủ nhận thức về KTMT và tăng cường tiết thực tế tại doanh nghiệp để sinh viên hiểu được việc áp dụng KTMT cũng như kế toán tập hợp, phân bổ chi phí thực tế như thế nào. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nhân tố áp lực cộng đồng dân cư cũng tác động đến việc áp dụng KTMT tại các doanh nghiệp sản xuất, điều này cũng dễ hiểu bởi vì cộng đồng dân cư là những người có thể lên tiếng về những ảnh hưởng mà doanh nghiệp gây ra cho môi trường như thuốc trừ sâu, phân bón, hóa chất...sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín cũng như hình ảnh của doanh nghiệp. Để khắc phục những áp lực này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nói riêng cần phải không ngừng lỗ lực đổi mới công nghệ cũng như hệ thông kế toán quản trị (MA) nhằm kiểm soát và hoạt động môi trường ngày càng đạt hiệu quả. Chuyên mục: Tài chính Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 14 (2020) 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Altohami Otman Alkisher. (2013). Factors influecing management accouting adoption in oil and manufacturing firms in Libya. A thesis for the degree of Doctor of Philosophy. Universiti Utara Malaysia. December 2013 [2]. Chang, H. (2007). Environmental Management Accounting Within Universities: Current State and Future Potential, Doctoral dissertation, RMIT University, Melbourne, Victoria, Australia. [3]. Clarke, K. & O‘Neill, S. (2006). Is the Environmental Professional An Accountant?‘, Greener Management International, 111-124. [4]. Deegan, C. & Blomquist, C. (2006). 'Stakeholder Influence on Corporate Reporting: An Exploration of the Interaction between WWFAustralia and the Australian Minerals Industry', Accounting, Organizations and Society, Vol 31, 343-372. [5]. Deegan, C. (2002). Introduction: the leggitimising effect of social and environmental disclosures- a theoretical foundation. Accouting. Auditing & Accountability Journal, 15(3), 282-311. [6]. Fernando, S. & Lawrence S. (2014). A Theoretical Framwork For CSR Practices: Integrating Legitimacy Theory, Stakeholder Theory and Institutional Theory‘. Journal of Theoretical Accounting Research, Vol 10, No. 1, 149 – 179. [7]. Freeman, M. (1984). Stakeholder Theory of the Modern Corporation, General Issue in Bussiness Ethics: The Controversy, Vol.3, 38-49. [8]. Ferreira, Moulang & Hendro. (2010). Environmental management accouting and innovation: an exploratory analysis. Accouting, Auditing & Accountability Journal, 23 (7),920-948 [9]. Hair, J.S., Black, W.C., Babin, B.J., Anderson, R.E., Tatham, R.L. (2006). Multivariate Data Analysis, New Jersey: Prentice-Hall. [10]. Phạm Đức Hiếu & Trần Thị Hồng Mai. (2012). Kế toán môi trường trong doanh nghiệp. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. [11]. IFAC. (2005). International Guidance Document Environmental Managenment Accouting. Online Avaitable at: <http:// www.ifac.org/publications-resources /international-gudance-document- environmental-management-accouting>. Acccessed 10 May 2015 [12]. Md. Hafij Ullah, Md. Musharf Hossain & K. M. Yakub. (2014). Environmental Disclosure Pratices in Annual Report of the Listed Textile Industries in Banladesh. Global Journal of Management and Business Reseach: D Accouting and Auditing. Volume 14 Issue 1 Version 1.0 Year 2014 [13]. Mia, A. H. (2005). The Role of Goverment in Promoting and Imlementing Enviromental Management Accouting: The Case of Bangladesh online Available [14]. Mousa, G.A & Hassan, N.T. (2015). Legitimacy Theory and Environmental Practices: Short Notes‘, International Journal of Business and Statistical Analysis, Vol. 2, No. 1, 42-53. [15]. Mohd Rashdan Sallehuddin & Faudziah Hamin Fadzil. (2013). Factors Influencing corporate Environmental Responsibility Disclosures: a case of Shariahcompliant companies Litsted in the Main Market of bursa Malaysia. [16]. Nghị quyết số 08/2019/NQ-HĐND ngày 17 tháng 7 năm 2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Kạn. [17]. Nguyễn Thị Hằng Nga. (2018). Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán quản trị môi trường tại các doanh nghiệp sản xuất ở Việt Nam- nghiên cứu cho các tỉnh khu vực phía Nam. Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh [18]. Patten, Dennis M. (2004). Evidence on the pernicious effect of financial report environmental disclosure. Accounting Forum, 28, p. 27-41 [19]. Pfeffer, J. & Salacik, G. (1978). The External Control of Organizations: A Resource Dependent Perspective, Harper and Row, New York. [20]. Lê Thị Tâm. (2017). Nghiên cứu kế toán quản trị chi phí môi trường trong doanh nghiệp sản xuất gạch tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân. Chuyên mục: Tài chính Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 14 (2020) 74 [21]. Nguyễn Ánh Tuyết và Nguyễn Chí Quang. (2006). Nghiên cứu thử nghiệm hạch toán quản lý môi trường tại công ty Machino Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học lần thứ 20, trang 239-249, Đại học Bách Khoa Hà Nội. [22]. Nguyễn Thành Tài. (2020). Các nhân tố ảnh hưởng đến kế toán môi trường và tác động của nó đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành dệt may tại Việt Nam. Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh [23]. Tsai, W., Lin, T and Chou, W. (2010). Integrating activity based costing and environmental cost accounting systems: a case study‘, Int. J. Business and Systems Research, Vol. 4, No. 2, pp.186-208. [24]. USEPA. (1995). An Introduction to Environmental Accouting As A Business Managenment Tool: Environmental As A Business Managenment Tool: Key Concepts And Terms. [25]. Wang Wei. (2016). Research on Environmental Accounting Information Disclosure Problems of Shanghai A Shares Pharmceutical Enterprise. International Confernce on Engineering Science and Management (ESM 2016), 0121-0126 [26]. Wendisch, N. and Heupel, T. (2005). Implementing Environmental Cost Accounting in Small and Medium – sized Companies, in Rikhardsson, P., Bennett, M., Bouma, J. and Schaltegger, S. (eds), Implementing Environmental Management Accounting: Status and Challenges, Springer, Dordrecht, Netherlands, Vol. 18, pp.193-206. Thông tin tác giả: 1. Vũ Thị Quỳnh Chi - - Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD Thái Nguyên - Địa chỉ email: vqchi.tueba@gmail.com 2. Thái Thị Thái Nguyên - Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD Ngày nhận bài: 27/08/2020 Ngày nhận bản sửa: 14/9/2020 Ngày duyệt đăng: 30/9/2020
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_den_ke_toan_moi_truong_trong_cac_doanh.pdf