Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ

Di tích lịch sử thành nhà Hồ là một di sản văn hoá quý báu của dân tộc, đang được

các cấp, các ngành chuẩn bị hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Bài nghiên cứu trình bày những giá trị về lịch sử - văn hoá, kiến trúc - mỹ thuật của Di

tích lịch sử thành nhà Hồ và các giải pháp khoa học nhằm bảo tồn, tôn tạo khu di tích này

Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ trang 1

Trang 1

Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ trang 2

Trang 2

Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ trang 3

Trang 3

Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ trang 4

Trang 4

Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ trang 5

Trang 5

Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 4400
Bạn đang xem tài liệu "Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ

Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử thành nhà Hồ
ải 
chông, hẳn là những chướng ngại vật đáng sợ đối với quân giặc trước khi phải đối mặt 
với tường thành bằng đá vững chãi. Xây thành ở vị trí đó, với chiến lược thủ hiểm, họ 
Hồ quả là có con mắt của một nhà quân sự!” [3; 35] 
 Xây dựng vào cuối thế kỷ XIV, khi lịch sử xây dựng thành luỹ của ông cha đã đi 
qua một chặng đường dài mười mấy thế kỷ, Thành nhà Hồ được kế thừa tất cả những 
tinh hoa đúc kết trong kỹ thuật xây dựng thành, đồng thời đã thể hiện tài năng, sáng tạo 
của con người Việt Nam, đánh dấu bước tiến vượt bậc trong kỹ thuật xây dựng thành luỹ. 
 Trước tiên là sự khác biệt trong chất liệu xây dựng thành. Nếu như thành Cổ Loa 
được xây dựng bằng đất và đá cuội, thành Hoa Lư đắp từ đất, gạch, phần móng có kê đá 
tảng và đóng cọc gỗ lớn, thành Thăng Long cũng bằng gạch, có vòng La Thành đắp đất 
thì thành nhà Hồ hoàn toàn khác. Chất liệu chính xây dựng công trình quân sự này là 
những khối đá xanh khổng lồ đẽo vuông thành sắc cạnh, được dựng khắp bốn mặt tường 
thành. Đó là một hiện tượng chưa hề gặp ở bất cứ một công trình kiến trúc quân sự cổ nào 
trên đất nước ta. Sau này, các thành luỹ khác như Đông Kinh tuy cũng được xây bằng đá 
nhưng không phải là đá khối kích thước lớn, một số đoạn được xây dựng bằng chất liệu là 
gạch. Thành Xích Thổ tiêu biểu cho nhà Mạc lại được đắp bằng đất, kè đá bên ngoài, và 
có sử dụng vôi vữa làm chất kết dính (đá kè bên ngoài lấy từ các núi đá vôi gần đó, 
thường to bằng chiếc mũ hoặc lớn hơn). Như vậy, thành Tây Đô được xây dựng từ loại 
vật liệu vững nhất đương thời là đá xanh với kích thước rất lớn. Do đó, đây chính là công 
trình quân sự bền vững nhất trong số các thành luỹ Việt Nam. 
 Bên cạnh đó, kỹ thuật xây thành cũng có sự khác biệt. Chính yếu tố nguyên liệu 
đã quyết định phần lớn kỹ thuật xây dựng một công trình. Nếu như các thành như Cổ 
Loa, Hoa Lư, Thăng Long sử dụng các vật liệu là: đất, gạch, đá cuội, đá viên... thì vấn 
đề kỹ thuật xây thành không có gì đặc biệt. Còn ở thành Tây Đô, nét đặc sắc là ở phần 
ốp bên ngoài tường thành những khối đá lớn được đẽo vuông vức, xếp chồng lên nhau 
theo hình chữ công, tạo thành vách thẳng đứng, mà không có mạch vữa. Những khối đá 
này có kích cỡ trung bình: 2,2 m x 1,2 m x 1,5 m, nặng khoảng 10 tấn. Cá biệt có khối 
đá khổng lồ cạnh cổng phía Tây nặng khoảng hơn 20 tấn. Đi dọc bốn phía thành, nhìn 
những phiến đá lớn chồng khít lên nhau, tạo thành bức tường đồ sộ, chúng ta không 
khỏi đặt ra câu hỏi thắc mắc rằng: làm thế nào người xưa đã có thể vận chuyển đá từ 
công trường về nơi xây dựng và nâng lên cao những khối đá lớn như vậy, trong điều 
kiện lao động thủ công và trong một thời gian rất ngắn? Những biện pháp đơn giản mà 
hiệu quả, được phỏng đoán là sử dụng để đưa đá từ xa về và nâng lên cao như: phương 
pháp dùng “cộ” “bi” đắp đất thoai thoải, kỹ thuật xây vòm cuốn không cần chất kết 
 59
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
dính... đã chứng tỏ óc sáng tạo tuyệt vời, bàn tay tài hoa và khả năng lao động bền bỉ 
của con người Việt Nam cuối thế kỷ XIV. Phương pháp này trước đó chưa từng sử dụng 
trong xây dựng thành ở Việt Nam. Nó khiến ta liên tưởng tới cách mà người Ai Cập xưa 
đã sử dụng để vận chuyển đá xây những kim tự tháp vĩ đại. 
 Không bàn gì về những lan can chạm rồng bằng đá, những viên gạch hoa nhiều vẻ 
lát nền hoặc trang trí... nghĩa là đã lược bỏ những phần mỹ thuật trang trí của các cung 
điện trong nội thành, ta vẫn thấy Tây Đô đã đạt tới đỉnh cao của một công trình kiến trúc. 
 Trong khi chưa có điều kiện khai quật nhiều, chỉ quan sát tường thành và những 
cổng cuốn vòm đồ sộ đã thể hiện mẫu mực về việc dùng các khối đá lớn để dựng thành. 
Trước thành nhà Hồ nhiều thế kỷ, từ thời Lý, tổ tiên ta đã từng dùng đá cứng làm tượng 
và bệ chân cột ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), làm bậc cửa và xây chắn các tầng nền ở 
chùa Vĩnh Phúc, chùa Phật Tích (Bắc Ninh), làm chân tháp như ở Chương Sơn và Phổ 
Minh (Nam Định). Nhưng phải đến Thành nhà Hồ thì đá mới được sử dụng rộng rãi và 
kiến trúc rất tài tình, đẹp mắt lại vô cùng bền vững. 
 Kỹ thuật xây tường thành và xây cả vòm cuốn còn cho thấy, không cần vôi vữa 
làm chất kết dính mà chỉ cần gia công cho đá thành từng khối thích hợp, được đặt đúng 
chỗ thì tự trọng lượng của chúng sẽ ép gắn chặt theo hình múi bưởi. Thời gian đã khẳng 
định sự vững vàng của kỹ thuật xây dựng thành này, và càng xác định vẻ đẹp trong từng 
khối đá và đường ghép. 
 Như vậy, cùng với những công trình kiến trúc tiêu biểu của Việt Nam thời trung đại 
như: chùa Diên Hựu, tháp Phổ Minh, kinh thành Thăng Long, thành Đông Kinh... thành 
Tây Đô xứng đáng đứng vào vị trí một trong những tác phẩm kiến trúc hàng đầu ở nước ta. 
Khi nghiên cứu về nghệ thuật Việt Nam, nhận xét về thành Tây Đô, L.Bơdaxiê - một nhà 
nghiên cứu người Pháp đã khẳng định: “Chúng tôi kết thúc bằng cách nhấn mạnh rằng công 
trình này là một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc An Nam”[3; 50]. 
 Đối với nền văn hoá khu vực, công trình kiến trúc Tây Đô cũng có một vị trí trang 
trọng. Nếu như ĂngCoVat mang tầm vóc di sản thế giới, là đỉnh cao, là kết tinh của hơn 
300 năm phát triển loại hình đền, miếu Khơme, nếu Bônôbudu là một tác phẩm kiến 
trúc đồ sộ, một công trình tưởng niệm Phật giáo, thì Tây Đô cũng mang vẻ đẹp độc đáo 
riêng, đó là thành luỹ quân sự kiên cố nhất, với kỹ thuật xây dựng tài tình thể hiện sức 
lao động bền bỉ của con người Việt Nam. 
 Thành Tây Đô ra đời cũng chứng tỏ nghệ thuật Việt Nam nói riêng, nghệ thuật 
Đông Nam Á nói chung, tuy chịu ảnh hưởng từ hai nền văn hoá lớn của nhân loại là văn 
hoá Trung Hoa và văn hoá Ấn Độ, nhưng vẫn tồn tại một nền văn hoá bản địa với sức 
sống mãnh liệt. Riêng đối với nghệ thuật kiến trúc thành luỹ, phải tới thế kỷ XV, Việt 
Nam mới chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Trung Quốc ở việc áp dụng một số cách xây 
dựng Trung Hoa như: hoả hồi, cửa thành bao, tường bắn, ụ bắn... Tuyệt nhiên, thành 
của Việt Nam không thể lẫn với thành Trung Quốc. Với thành Tây Đô, tuy sử dụng một 
số kỹ thuật xây thành thông dụng nhưng vẫm đậm tính độc đáo của riêng nó: ở chất liệu 
xây dựng, kích thước, cách cải thiện tự nhiên... 
 60
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
2. Các giải pháp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của DTLS Thành nhà Hồ. 
 Thực trạng đáng buồn hiện nay là khu DTLS Thành Nhà Hồ đang có nguy cơ trở 
thành một phế tích. Vì vậy, những năm tới, trong khi chờ đợi một dự án trùng tu lớn, 
toàn diện với mức kinh phí lên tới hàng ngàn tỷ đồng, chúng ta cần thực hiện các nhóm 
giải pháp bảo tồn, tôn tạo đồng bộ sau: 
 Thứ nhất, nhóm giải pháp về khoa học - kỹ thuật: 
 - Khẩn trương lập quy hoạch khoanh vùng bảo vệ, tôn tạo khu di tích. 
 Theo Luật Di sản văn hoá, khu DTLS Thành nhà Hồ được phân thành 2 khu vực 
bảo vệ: Khu vực 1: Từ mép hào nước chạy quanh thành trở vào khu nội thành. Đây là 
khu vực bất khả xâm phạm, nghiêm cấm tuyệt đối mọi hoạt động làm ảnh hưởng đến di 
tích và cảnh quan môi trường di tích. Khu vực 2: Bao gồm toàn bộ đất từ hào thành trở 
ra. Đây là khu vực vành đai bảo vệ di tích, được phân định như sau: Phía Bắc từ núi 
Voi, phía Nam từ Đốn Sơn, phía Đông từ núi Hắc Khuyển và sông Bưởi, phía Tây từ 
sông Mã trở vào. 
 Cùng với đó, cần quy hoạch khoanh vùng các DTLS phụ cận xung quanh thành 
nhà Hồ, bao gồm các di tích: Đàn tế Nam Giao - Đốn Sơn, Đền thờ Nàng Bình Khương, 
Đền thờ Trần Khát Chân, Núi An Tôn và Hang Nàng, Đình làng Đông Môn, Đền Tam 
Tổng, các chùa Linh Giang, Tường Vân, Du Anh... 
 Mọi quy hoạch trên phải được tiến hành một cách nghiêm túc, khoa học, công bố 
công khai, rộng rãi, nhất là với chính quyền và nhân dân địa phương. 
 - Tiếp tục nghiên cứu, điều tra, thám sát, khai quật khảo cổ học. 
 Vì nhiều lý do, trải qua hơn 600 năm, các nguồn tư liệu về khu DTLS Thành nhà 
Hồ vừa ít ỏi, lại tản mạn. Cho đến 2002 chưa có một nghiên cứu khảo cổ học thực sự ở 
khu di tích. Từ 2002 đến nay, mới chỉ có vài đợt nghiên cứu khảo cổ học của các chuyên 
gia Nhật Bản và Việt Nam (Chương trình này mãi đến 2020 mới kết thúc). Vì vậy, việc 
nghiên cứu cơ bản, nhất là thám sát khai quật khảo cổ học diện rộng ở khu vực Hoàng 
thành tiếp tục được tiến hành để đánh giá đầy đủ, chính xác hơn về khu di tích. Để làm tốt 
công tác này, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các nhà nghiên cứu địa phương 
với các nhà khoa học Nhật Bản và các cơ quan nghiên cứu ở Trung ương. Các hiện vật 
thu thập được cần được tổ chức thẩm định khoa học, trưng bày, giới thiệu rộng rãi, phục 
vụ nghiên cứu, học tập và phát huy giá trị khu di tích. Bài học của việc tôn tạo các DTLS 
(Ngay cả ở khu DTLS Lam Kinh) cho thấy, nếu công tác nghiên cứu khoa học không đi 
trước một bước, không được tiến hành nghiêm túc, sẽ dẫn đến phá hoại di tích. 
 - Sử dụng các phương tiện hiện đại trong nghiên cứu về khu di tích. 
 Tháng 12 năm 2003, đoàn nghiên cứu khảo cổ học Nhật Bản đã vẽ thành công cấu 
trúc khu vực cửa Bắc với phương pháp không gian 3 chiều - một phương pháp hiện đại 
đầu tiên được áp dụng ở nước ta. Điều đó cho phép xác định và vẽ cổng thành từ nhiều 
chiều, các tổ hợp và thành phần kiến trúc với chi tiết và độ chính xác cao. Đồng thời, 
các chuyên gia bạn cũng thực hiện chụp ảnh tư liệu cụ thể diện mạo bên ngoài của từng 
đoạn thành (với độ dài 10 mét) để hiểu rõ thực trạng của thành và phần nào tìm hiểu kỹ 
thuật xây thành qua cách chồng xếp các phiến đá. Những năm sắp tới, để hiểu rõ cấu 
 61
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
trúc thành và các công trình kiến trúc cổ còn lại dưới mặt đất, tại khu trung tâm thành và 
một số địa điểm quan trọng khác, đoàn nghiên cứu cũng có kế hoạch tiến hành khảo sát 
bằng thiết bị thăm dò trên mặt đất hiện đại. Như vậy, bên cạnh các phương pháp truyền 
thống, việc áp dụng công nghệ, thiết bị hiện đại trong điều tra khảo sát khu di tích là 
điều kiện quyết định thành công các kết quả nghiên cứu. 
 - Tiến hành tu bổ, tôn tạo cấp thiết đối với các hạng mục di tích đã có đầy đủ tư 
liệu, cơ sở khoa học. 
 Bốn cổng thành được coi là linh hồn của khu di tích, cần được nạo vét lớp đất 
trên của lối ra vào, xây lại hệ thống thoát nước, chống lầy lội như hiện nay; dùng hoá 
chất diệt, loại bỏ toàn bộ rêu phong bám trên vòm cổng; tiến hành chống thấm, bóc bỏ 
các lớp xi măng liên kết giữa các mạch đá (đã sử dụng trong các lần tu bổ trước đây), 
thay bằng các vật liệu và kỹ thuật phù hợp. 
 Hệ thống tường thành cần có phương án tôn tạo phần đã bị lún theo các bước: 
Thoát nước dọc theo mặt trong của tường thành; triệt bỏ cây dại bám vào tường thành, 
phun hoá chất ngăn ngừa phát triển trở lại; quy hoạch đường đi bộ quanh thành, giảm 
thiểu việc đi lại trong thành; từng bước khôi phục hệ thống tường thành khi có những 
dự án tốt, đảm bảo đúng nguyên tắc tu bổ. Kinh nghiệm tôn tạo các đoạn thành trong 
những năm gần đây cho thấy sự tuỳ tiện, cẩu thả trong tôn tạo di tích lại trở thành phá 
hoại di tích; cần tận dụng bàn tay tài hoa của các nghệ nhân chế tác đá của các địa 
phương trong tỉnh... 
 Hệ thống hào thành cần được khôi phục đúng nguyên dạng, nhằm trả lại cấu trúc 
ban đầu và tạo cảnh quan môi trường, thoát nước cho khu di tích: khảo sát, định vị lại vị 
trí hào thành; nạo vét lòng hào; kè đá hai bên chống sụt lở; phục hồi, tôn tạo lại cống 
gạch qua hào. 
 Xác định lại chính xác các công trường khai thác đá cung cấp cho khu di tích, 
phục vụ cho tu bổ, tôn tạo lớn sau này. 
 Thứ hai, nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội. 
 Đây là nhóm giải pháp khó khăn, phức tạp nếu nếu không có sự phối hợp tốt giữa 
các ngành các cấp, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân địa phương. 
 - Đối với cư dân sống xung quanh khu di tích. 
 Hiện nay diện tích đất khoảng 1 Km vuông khu vực nội thành đã được cấp sổ đỏ 
đến 2013. Hàng trăm hộ dân của các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến đang sinh sống trong khu 
vực không xâm phạm của khu di tích...Vì vậy, cần có biện pháp chuyển đổi cơ cấu cây 
trồng thích hợp, giảm thiểu khai thác đất, ảnh hưởng khu di tích; nạo vét các kênh thuỷ 
lợi; Khi hết thời gian sử dụng đất, nhanh chóng thu hồi trả lại cho di tích; tiến hành đền 
bù các thửa ruộng, từng phần, từng ô theo kế hoạch khai quật khảo cổ học; giải toả triệt 
để các lán tạm trong khu vực nội thành; lập phương án di dời ngay các hộ dân đang sinh 
sống trong khu vực 1, sau đó tiến hành giải toả các hộ dân ở khu vực 2 và lập phương 
án tái định cư cho các hộ dân đó. 
 - Hệ thống đường giao thông trong khu di tích cần được quy hoạch lại, tiến tới 
khôi phục khu phố cổ và trục đường Hoà Nhai (Từ núi Đốn Sơn đến cửa Nam); Cấm 
tuyệt đối các xe cơ giới đi lại qua nội thành. 
 62
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
 - Bước đầu phát triển du lịch. 
 Cần hoàn chỉnh đề án xây dựng các tuyến và điểm du lịch trong tỉnh; Tạo mối 
liên hệ du lịch giữa khu di tích thành nhà Hồ với các điểm du lịch trọng điểm của tỉnh: 
Sầm Sơn, Lam Kinh, Cửa Đạt... 
 - Thu hút nguồn vốn 
 Tìm kiếm các dự án, huy động các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong và 
ngoài nước. Tuy nhiên, để tôn tạo một khu di tích trọng điểm như thành nhà Hồ, nguồn 
vốn của Nhà nước cấp vẫn là chủ yếu. 
 Thứ ba, nhóm giải pháp về tổ chức quản lý. 
 Đây là nhóm giải pháp mang tính chất đột phá, trước hết cần: 
 - Tăng cường điều kiện cho Ban Quản lý khu di tích có đủ năng lực, quyền hạn để 
bảo vệ, tuyên truyền giá trị khu di tích. 
 - Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nhất là thế hệ trẻ học sinh, sinh viên trong 
việc tôn trọng, bảo vệ khu di tích. 
 - Phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các ngành Giáo dục, ngành Văn hoá và chính quyền 
địa phương trong công tác bảo tồn, tôn tạo và tuyên truyền, phát huy ý nghĩa khu di tích. 
 Những giải pháp được đề xuất trên đây vừa có ý nghĩa trước mắt, nhằm cứu vớt khu 
di tích khỏi trở thành phế tích, vừa là cơ sở để tiến hành việc trùng tu lâu dài, trong đó nhóm 
giải pháp khoa học - kỹ thuật là quan trọng nhất. Chỉ có thế, DTLS Thành nhà Hồ - Niềm tự 
hào của Thanh Hoá và của cả nước, mới nhanh chóng trở thành Di sản văn hoá thế giới. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ban Quản lý di tích - danh thắng Thanh Hoá, “Di tích- Danh thắng Thanh Hoá”, tập 1, 
 NXB Thanh Hoá, 2006. 
[2] “Đại Việt sử ký toàn thư”, tập 1, 2, NXB Văn hóa Thông tin, HN, 2004. 
[3] Hoàng Thanh Hải, Báo cáo tổng kết đề tài cấp tỉnh “Thực trạng và các giải pháp 
 bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử Thành nhà Hồ”, Thanh Hóa, 2005. 
 THE SOLUTION TO CONSERVATION ANH IMPROVEMENT OF 
 THE HISTORICAL MONUMENT HO CITADEL 
 Hoang Thanh Hai1 
 1Faculty of Social Sciences, Hong Duc University 
 ABTRACT 
 The historical monument Ho Citadel, the cultural heritage of Vietnamese people 
has been being submitted to UNESCO to acknowledge as the World Heritage. The paper 
presents not only the historic- cultural, architectural-art values of Ho Citadel, but also 
scientific solutions to conservation and improvement of the historical monument. 
 63

File đính kèm:

  • pdfcac_giai_phap_bao_ton_ton_tao_khu_di_tich_lich_su_thanh_nha.pdf