Bất cập trong hoạt động áp dụng án lệ của tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, khi các tranh chấp ngày càng nhiều và phức tạp, việc áp
dụng án lệ để giải quyết các tranh chấp đó được xem là một trong các giải pháp hữu hiệu. Tuy nhiên,
nhiều bất cập trong việc ban hành, công bố và sử dụng án lệ dẫn đến hiệu quả áp dụng án lệ còn thấp. Tác
giả phân tích một số vấn đề còn hạn chế trong quá trình áp dụng án lệ và đề xuất giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về áp dụng án lệ để giải quyết các tranh chấp hiện nay tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Bất cập trong hoạt động áp dụng án lệ của tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bất cập trong hoạt động áp dụng án lệ của tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
định bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng ý với hợp đồng mua bán nhà đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận”. Khi áp dụng án lệ này các tòa án sẽ gặp khó khăn trong việc xác định phạm vi của quy tắc án lệ. Cụ thể nếu căn cứ vào tình tiết được nêu ở nội dung trên thì áp dụng án lệ này cần phải đầy đủ các tình tiết sau: (i) hợp đồng mua bán nhà được lập thành văn bản trước ngày 01-7-1991; (ii) có chữ ký của bên bán; (iii) ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền; (iv) bên mua tuy chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua nhà. Nếu đầy đủ các tình tiết này thì được xem là ý chí của bên mua là đích thực, hướng giải quyết của án lệ là công nhận hiệu lực hợp đồng mua bán nhà. Tuy nhiên, nếu vụ việc tòa án đang giải quyết có tình tiết khác với các tình tiết khác với các tình tiết nêu trong phần khái quát nội dung của án lệ số 7 nhưng vẫn thể hiện ý chí đích thực của bên mua thì tòa án có áp dụng án lệ hay không. Chẳng hạn, hợp đồng không do bên mua giữ mà bên thứ ba giữ còn các tình tiết khác vẫn đầy đủ. Rõ ràng tình tiết này không làm thay đổi việc nhận diện ý chí đích thực của bên mua nhưng lại không áp dụng án lệ do sự khác biệt về tình tiết. 2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về áp dụng án lệ của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay 2.1. Hoàn thiện các quy định hiện hành về thẩm quyền xây dựng án lệ của Tòa án Pháp luật hiện hành nên thay đổi theo hướng xác định thẩm quyền xây dựng án lệ của Tòa án gắn liền với chức năng xét xử – giải quyết vụ việc cụ thể [13]. Nguyên tắc này cũng được áp dụng ở các nước Thông luật và Dân luật. Điều này có nghĩa là Tòa án ban hành các bản án, quyết định để giải quyết các các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại chứa các giải pháp pháp lý mới cũng chính là Tòa án có thẩm quyền xây dựng án lệ. Thay đổi theo hướng này sẽ đúng với bản chất sáng tạo pháp luật của Tòa án là “lập pháp tư pháp” hơn. Nếu thay đổi theo hướng này thì cần sửa đổi các quy định sau: – Sửa đổi quy định khái niệm án lệ tại Điều 1, Nghị quyết 04/2019//NQ-HĐTP như sau: “Án lệ là những bản án, quyết định của Tòa án được sử dụng làm khuôn mẫu để giải quyết cho các vụ Nguyễn Thị Hoài Thương Tập 130, Số 6C, 2021 10 việc tương tự về sau”. Đây là khái niệm mang tính khái quát và được sử dụng phổ biến ở các quốc gia trên thế giới. – Pháp luật không nên quy định thẩm quyền ban hành án lệ của TAND tối cao như hiện nay. Điều đó có nghĩa là, nên bãi bỏ các quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014, về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao và Khoản 5, Điều 27 Luật Tổ chức TAND năm 2014, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án TAND tối cao. Nếu pháp luật quy định thay đổi theo hướng này thì việc lựa chọn các bản án, quyết định để công bố làm án lệ sẽ dễ dàng và nhanh chóng hơn. Tòa án có thẩm quyền xây dựng án lệ cũng chính là Tòa án ban hành các bản án, quyết định chứa các giải pháp pháp lý mới nên có thể lựa chọn và công bố án lệ thuận lợi và nhanh chóng mà không phải trải qua một quy trình quá chặt chẽ và phức tạp như hiện nay. Mặt khác, sự thay đổi như vậy sẽ tránh được bất cập; đó là việc Tòa án ban hành án lệ sẽ xâm phạm quyền lập pháp của Quốc hội và cũng tránh được tình trạng nội dung của án lệ mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật. 2.2. Hoàn thiện các quy định hiện hành về vấn đề công bố án lệ Công bố án lệ là hoạt động quan trọng nhằm bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất[9]. Có nhiều cách thức khác nhau trong hoạt động công bố án lệ nhằm giúp cho những người sử dụng án lệ như thẩm phán, luật sư nhận diện được bản án, quyết định nào có giá trị là án lệ như công bố chính thức từ các Bộ phận chuyên trách, công bố trong tuyển tập án lệ. Việc công bố án lệ không nhằm mục đích xác định hiệu lực pháp lý của án lệ mà chủ yếu nhằm đưa nội dung của án lệ đến công chúng. Đối tượng được lựa chọn công bố làm án lệ nên thay đổi theo hướng trước mắt là tập trung vào các bản án, quyết định của TAND tối cao và TAND cấp cao thay vì dàn trải như hiện nay là bao gồm cả các bản án, quyết định của TAND ở tất cả các cấp. Vì hiện nay, số lượng bản án, quyết định của TAND cấp huyện và cấp tỉnh là rất lớn, nên việc lựa chọn sẽ rất khó khăn. Mặt khác, thực tiễn công bố án lệ của Việt Nam thời gian qua cho thấy các bản án quyết định được lựa chọn công bố làm án lệ đều là các quyết định giám đốc thẩm của TAND tối cao. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp trước mắt. Trong tương lai, nếu hệ thống Tòa án Việt Nam tổ chức theo cấp xét xử triệt để bao gồm Tòa án tối cao, các tòa phúc thẩm và các tòa sơ thẩm thì việc lựa chọn các bản án, quyết định để công bố làm án lệ sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn trong việc bảo đảm tính thống nhất của các án lệ. 2.3. Hoàn thiện các quy định hiện hành về xác định hiệu lực thời gian của án lệ Trên cơ sở nghiên cứu về vấn đề xác định hiệu lực theo thời gian của án lệ ở các nước Thông luật và Dân luật, tác giả thấy rằng hầu hết các nước không quy định về thời điểm phát Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 6C, 2021 sinh và chấm dứt hiệu lực của án lệ giống như pháp luật Việt Nam hiện hành. Do đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật như sau: Pháp luật không nên quy định rõ thời điểm phát sinh và chấm dứt hiệu lực của án lệ như hiện nay nhằm tránh tình trạng áp dụng án lệ cứng nhắc cũng như công lý bị trì hoãn chỉ vì phụ thuộc vào thời điểm phát sinh hiệu lực của án lệ [11]. Các tòa án có thể áp dụng án lệ linh hoạt hơn nhằm bảo đảm các vụ việc giống nhau phải được giải quyết như nhau. Án lệ hình thành và mất đi một cách rất tự nhiên gắn liền với các hoạt động tố tụng của Tòa án. Do vậy, trong vô số các bản án, quyết định của Tòa án thì việc nhận biết được bản án, quyết định nào là án lệ và khi nào một án lệ hết giá trị áp dụng luôn là những trở ngại đáng kể đối với các thẩm phán áp dụng án lệ cũng như các luật sư sử dụng án lệ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Thông thường, một số quốc gia ngày nay có nhiều cách thức khác nhau giúp cho những người sử dụng án lệ như thẩm phán, luật sư nhận diện án lệ dễ dàng, ví dụ thành lập các bộ phận chuyên trách lựa chọn các bản án, quyết định chứa các giải pháp pháp lý mới (án lệ) để công bố chính thức, công bố bằng hình thức tuyển tập (law report) ở nước Thông luật... Các biện pháp này có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm áp dụng thống nhất của ngành tòa án. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng chỉ khi nào các bản án, quyết định được công bố trong các tuyển tập hoặc từ các bộ phận chuyên trách công bố chính thì các Tòa án mới có thể áp dụng. Thông thường, các tòa án có thể vận dụng một giải pháp pháp lý mới nào đó trong bản án, quyết định của một tòa án để giải quyết vụ việc ngay sau khi bản án, quyết định đó được ban hành. Như vậy, các hình thức công bố chính thức của bản án, quyết định từ các bộ phận chuyên trách, công bố bằng hình thức tuyển tập chỉ nhằm giúp nhận diện bản án, quyết định nào hoặc phần nào có giá trị là án lệ chứ không phải nhằm tách biệt giữa hoạt động xét xử của tòa án với hoạt động ban hành án lệ. Vì vậy, ở các quốc gia sử dụng án lệ ngày nay, thường thì thời điểm để xác định hiệu lực hồi tố hay hiệu lực trở về sau của án lệ tính từ thời điểm bản án, quyết định được ban hành. Điều này chứng tỏ rằng hoạt động tạo lập án lệ của Tòa án luôn gắn liền với hoạt động xét xử – giải quyết vụ việc của Tòa án. Nếu theo khuynh hướng này thì cần phải bãi bỏ các quy định sau: – Bãi bỏ quy định thời điểm phát sinh hiệu lực của án lệ tại Khoản 1, Điều 8 của Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP: “Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố”. Mặt khác, bãi bỏ quy định thời điểm chấm dứt hiệu lực của án lệ tại Khoản 3, Điều 10 của Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP: “Trên cơ sở kết quả biểu quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành thông báo bãi bỏ án lệ, trong đó xác định rõ thời điểm án lệ bị bãi bỏ”. Nguyễn Thị Hoài Thương Tập 130, Số 6C, 2021 12 Đồng thời, bổ sung thêm quy định: “Quyết định bãi bỏ án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao và gửi đến các Tòa án”. – Về vấn đề cho phép áp dụng hiệu lực hồi tố hay không, Việt Nam nên cho phép áp dụng hiệu lực hồi tố đối với các án lệ mới và nên sử dụng hình thức xác định hiệu lực bất hồi tố của án lệ – “Non-retroactivity”. Hiệu lực bất hồi tố khi bác bỏ án lệ là không áp dụng án lệ mới trước ngày ra phán quyết nhưng phải xem xét áp dụng hiệu lực này là cần thiết trong từng vụ việc, tình huống tranh chấp cụ thể chứ không phải đương nhiên mọi trường hợp đều áp dụng hiệu lực về sau của án lệ. Tham khảo kinh nghiệm ở các nước trên thế giới dù theo khuynh hướng áp dụng hiệu lực hồi tố của án lệ hay chỉ áp dụng hiệu lực về sau đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Vì vậy, xu hướng phổ biến hiện nay ở các nước trên thế giới là lựa chọn hình thức hiệu lực bất hồi tố (non-retroactivity) nhằm tránh những chỉ trích đối với hình thức áp dụng hiệu lực hồi tố lẫn hình thức áp dụng hiệu lực về sau thuần túy của án lệ. 2.4. Hoàn thiện các quy định hiện hành về vấn đề xác định yếu tố bắt buộc của án lệ Việt Nam cần thay đổi cách thức công bố án lệ theo hướng công bố toàn bộ nội dung của bản án, quyết định của tòa án được lựa chọn làm án lệ và có thể công bố kèm theo phần tóm tắt nội dung án lệ chứ không theo mẫu như hiện nay [14]. Mục đích công bố toàn bộ nội dung bản án, quyết định là phản ánh đầy đủ các tình tiết và các lập luận của tòa án. Vai trò của phần tóm tắt là giúp người đọc dễ nắm bắt nội dung của án lệ chứ không phải là phần chứa đựng yếu tố bắt buộc của án lệ. Về vấn đề này, Việt Nam có thể tham khảo cách thức công bố án lệ ở Anh. Các bản án của tòa án ở Anh được công bố trên các website bằng file điện tử gồm: Phần nội dung đầy đủ của bản án (judgemment) và phần tóm tắt (press summary). Phần tóm tắt giúp cho các thẩm phán, luật sư và chuyên gia pháp lý có thể dễ dàng nhận thức nội dung quy tắc án lệ trong bản án và nó cũng có thể đưa các thông tin xét xử của tòa án tới công chúng một cách nhanh chóng. Mặc dù phần này được tòa án công bố chính thức nhưng không có giá trị pháp lý. Khi xét xử các thẩm phán không được viện dẫn phần tóm tắt làm cơ sở pháp lý để ra quyết định mà phải sử dụng quyết định chính thức của tòa án. Việc áp dụng cách thức công bố này sẽ tạo ra sự thống nhất xác định yếu tố bắt buộc của án lệ ngay trong bản án, quyết định của tòa án cũng như có thể thực hiện được nguyên tắc tương tự. Ngoài ra, ở Việt Nam cần phải có phương pháp xây dựng yếu tố bắt buộc của án lệ trong phần lập luận của bản án, quyết định chứa các giải pháp pháp lý mới. Về vấn đề này, bước đầu Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm từ Tòa Phá án của Pháp. Những bản án, quyết định của Tòa Phá án khi giải quyết các vấn đề pháp lý thì trong phần lập luận của tòa thường có một quy tắc mang tính khái quát gần giống với một quy phạm pháp luật trong văn bản pháp luật. Nếu xây dựng yếu tố bắt buộc của án lệ theo cách thức này thì các tòa án sẽ dễ dàng áp dụng án lệ hơn. Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 6C, 2021 3. Kết luận Đối với hoạt động áp dụng án lệ, cần phải có những biện pháp, chế tài cụ thể nhằm tạo ra thói quen sử dụng án lệ cho các thẩm phán cũng như trọng tài viên. Bên cạnh đó, cần tạo ra một khung pháp lý về cách thức vận dụng, viện dẫn, tuân thủ hoặc bác bỏ án lệ; các quy định này càng chặt chẽ sẽ càng nâng cao hiệu quả áp dụng án lệ. Ngoài ra, trong quá trình xét xử tranh chấp kinh doanh, thương mại trên thực tế, các thẩm phán cần sử dụng án lệ kết hợp với nhiều loại nguồn khác nhau như tập quán pháp, áp dụng tương tự pháp luật, sẽ công bằng để có thể mang đến hiệu quả giải quyết tối ưu nhất và bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các bên trong tranh chấp kinh doanh, thương mại. Việc ghi nhận sự tham gia điều chỉnh các quan hệ pháp luật của nguồn luật án lệ là một trong những giải pháp đúng đắn của Nhà nước Việt nam trong nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hiến pháp năm 2013, sau đó là việc thay đổi Bộ Luật Dân sự 2015, đặc biệt là sự ra đời của Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP và gần đây nhất được thay thế bằng Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP đã từng bước khẳng định cho vai trò, vị trí của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy vậy, không thể phủ nhận, việc áp dụng án lệ để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Để khắc phục hạn chế này, các nhà khoa học phải tiếp tục nghiên cứu làm hoàn thiện hơn lý luận về áp dụng án lệ, đồng thời, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ làm khả thi nguyên tắc áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trương Hòa Bình (chủ nhiệm) (2012), Triển khai án lệ vào công tác xét xử của Tòa án Việt Nam, Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. 2. Nguyễn Bá Bình (2019), Án lệ và sử dụng án lệ trong đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 3. Đỗ Văn Đại (2016), Nhận diện giá trị nội dung trong quyết định tạo lập án lệ, Tạp chí Tòa án nhân dân, 12, 44–48. 4. Đỗ Văn Đại, Đỗ Văn Kha (2008), Án lệ trong pháp luật thực định Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, 2, 39–48. 5. Trịnh Thục Hiền (2019), Án lệ Việt Nam: Một biến thể của văn bản quy phạm pháp luật? Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 5, 3–14, 21. Nguyễn Thị Hoài Thương Tập 130, Số 6C, 2021 14 6. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP quy định về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Trọng tài thương mại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Châu Hoàng Thân (2016), Thách thức và định hướng triển khai áp dụng án lệ ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 9, 11–18, 31. 10. Đỗ Thanh Trung (2018), Hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án: Một số bất cập và hướng hoàn thiện, Tạp chí Tòa án nhân dân, 7, 21–28. 11. Đỗ Thanh Trung (2017), Bàn về hiệu lực thời gian của án lệ, Tạp chí Khoa học Pháp lý, 9, 9– 15. 12. Đỗ Thanh Trung (2016), Vai trò tạo lập án lệ của tòa án, Tạp chí Kiểm sát, 3, 54–62. 13. Phí Thị Thanh Tuyền (2017), Hoàn thiện quy trình xây dựng án lệ ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo quốc tế: “Án lệ – Lý luận, thực tiễn ở Việt Nam và một số nước”, Ngày 4/7/2017 tại Đại học Luật Hà Nội. 14. Phạm Thị Thanh Xuân (2017), Bàn về án lệ và việc áp dụng án lệ ở Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, 3, 11–13.
File đính kèm:
- bat_cap_trong_hoat_dong_ap_dung_an_le_cua_toa_an_nhan_dan_o.pdf