Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch

Tóm tắt

Việt Nam có quyền tự hào về kho tàng di sản văn hóa đồ sộ, đa dạng, độc đáo và đậm bản sắc dân

tộc. Những di sản văn hóa ấy đã và đang được bảo tồn, tôn tạo, phục dựng, lưu truyền, quảng bá và

làm thăng hoa giá trị, phục vụ chính nhu cầu thụ hưởng văn hóa của người dân và du khách. Những

cố gắng nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản, phải vượt qua không ít khó

khăn thách thức nhưng đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Đóng góp vào quá trình đó phải kể

đến vai trò quan trọng của hoạt động du lịch. Bài viết này bàn sâu về cách thức làm du lịch dựa vào di

sản và vì di sản, qua đó khẳng định phát triển du lịch là con đường tốt nhất để bảo tồn và phát huy giá

trị di sản văn hóa Việt Nam.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch trang 1

Trang 1

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch trang 2

Trang 2

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch trang 3

Trang 3

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch trang 4

Trang 4

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch trang 5

Trang 5

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 2320
Bạn đang xem tài liệu "Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam thông qua phát triển du lịch
u lịch dựa vào di sản ở nhiều nơi như 
Huế, Hội An, Hạ Long đã và đang trở thành 
cơ sở, động lực sinh kế chính, ngành nghề 
chủ yếu của người dân cũng như ngành kinh 
tế chủ lực của địa phương. Du lịch di sản vừa 
tạo ra thu nhập, việc làm, vừa tạo động cơ, vừa 
tạo ra nguồn lực để bảo tồn và phát huy giá 
trị di sản; đồng thời hỗ trợ tích cực nâng cao 
chất lượng cuộc sống, tăng cường hiểu biết, 
tôn trọng đa dạng và giao thoa các nền văn 
hóa, làm cơ sở hình thành quy tắc ứng xử phù 
hợp giữa người dân với khách du lịch và với di 
sản. Những lợi ích của du lịch di sản là không 
nhỏ và được chia sẻ đến doanh nghiệp, người 
dân và một phần doanh thu từ du lịch di sản 
được quay trở lại tái đầu tư vào việc bảo tồn, 
tôn tạo, tôn vinh, phục dựng và quản lý di sản. 
Với ý nghĩa đó, du lịch di sản đóng góp to lớn 
cho việc bảo tồn và phát huy bền vững di sản 
văn hóa.
Di sản văn hóa tạo động lực cho du lịch: Di 
sản văn hóa là tài nguyên du lịch có sức hấp 
dẫn mạnh mẽ, là động lực thu hút ngày càng 
nhiều khách tham quan trong nước và khách 
du lịch quốc tế đến Việt Nam. Hiện nay, ngành 
du lịch xem đây là nền tảng, trụ cột quan trọng 
để phát triển kinh tế du lịch bên cạnh các yếu 
tố về hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên 
ngành và nguồn nhân lực. Di sản văn hóa cũng 
là công cụ hỗ trợ tích cực trong việc định vị hình 
ảnh, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam.
Chúng ta có quyền tự hào về bề dày lịch sử 
ngàn đời của đất nước với 54 dân tộc anh em 
đã để lại cho hôm nay một kho tàng di sản văn 
hóa đồ sộ, vô cùng phong phú, đa dạng và độc 
đáo. Đến nay đã có 27 di sản văn hóa vật thể, 
phi vật thể và di sản thiên nhiên được UNESCO 
vinh danh là di sản thế giới, trong đó có 8 di 
sản thiên nhiên và di sản văn hóa vật thể (Vịnh 
Hạ Long, Khu trung tâm Hoàng thành Thăng 
Long - Hà Nội, Quần thể danh thắng Tràng An, 
Thành nhà Hồ, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ 
Bàng, Quần thể di tích Cố đô Huế, Khu Phố cổ 
Hội An, Khu Di tích Mỹ Sơn); 12 di sản văn hóa 
phi vật thể (Nhã nhạc, Âm nhạc cung đình Việt 
Nam (Triều Nguyễn), Không gian văn hóa cồng 
chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, 
Hát Ca trù, Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền 
Sóc, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú 
Thọ, Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ, Nghi 
lễ và trò chơi kéo co, Thực hành tín ngưỡng 
Thờ Mẫu tam phủ của người Việt, Hát Xoan 
Phú Thọ, Nghệ thuật Bài Chòi miền trung Việt 
Nam; và 3 di sản Tư liệu thế giới (Mộc bản Triều 
Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long, 
Châu bản triều Nguyễn) (1, tr.33-34). Cùng với 
đó là hàng vạn di tích lịch sử, văn hóa và danh 
lam thắng cảnh được công nhận di sản. Số 
liệu thống kê cho thấy hiện nay trên cả nước 
có 3.463 di tích lịch sử văn hóa và danh lam 
thắng cảnh được xếp hạng di tích cấp quốc 
gia, gần 10.000 di tích xếp hạng cấp tỉnh, hơn 
bốn vạn di tích và 61.669 di sản văn hóa phi vật 
thể trên cả nước được kiểm kê theo Luật Di sản 
văn hóa, trong đó có 249 di sản văn hóa phi 
vật thể được ghi vào danh sách di sản văn hóa 
phi vật thể quốc gia (1, tr.4) và hệ thống các lễ 
hội, làng nghề truyền thống; văn hóa ẩm thực 
các vùng miền, dân tộc; các di sản văn hóa văn 
nghệ dân gian 
Trên cơ sở phát huy các giá trị di sản văn 
hóa đặc trưng riêng có của mỗi loại hình di 
sản, những năm gần đây, du lịch di sản đã 
phát triển mạnh mẽ, lượng khách tham quan 
trong nước và quốc tế không ngừng gia tăng, 
đặc biệt di sản sau khi được Nhà nước lập hồ 
sơ công nhận và được UNESCO vinh danh. 
Sức hấp dẫn của di sản đã tạo động lực cho 
phát triển du lịch, mang lại nhiều lợi ích về thu 
69Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhập, việc làm và phát triển kinh tế - xã hội địa 
phương. Cụ thể: Quần thể di tích cố đô Huế, 
năm 2017 đón 3 triệu lượt khách du lịch, trong 
đó 1,8 triệu khách du lịch quốc tế, thu được 
320 tỷ đồng từ bán vé tham quan di sản; Phố 
cổ Hội An đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 
tỷ đồng từ bán vé tham quan (1, tr.9). Các di 
sản nổi tiếng như Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia 
Phong Nha - Kẻ Bàng, Khu Danh thắng Tràng 
An, Khu di tích danh thắng Yên Tử, khu Di tích 
Núi Bà Đen những năm gần đây không 
ngừng được đầu tư phát triển. Qua đó du lịch 
di sản đã đóng góp to lớn vào sự phát triển 
vượt bậc của ngành du lịch. Giai đoạn từ 2010 
đến nay, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã 
tăng gấp hơn 3 lần, từ 5 triệu lượt năm 2010 
lên 15,6 triệu lượt năm 2018. Khách du lịch 
nội địa tăng gấp 2,85 lần, từ 28 triệu lượt năm 
2010 lên 80 triệu lượt năm 2018. Tổng thu du 
lịch tăng trên 6 lần, từ 96.000 tỷ 2010 lên hơn 
620.000 tỷ đồng 2018 (8); đóng góp trên 7% 
GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo 
ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu 
việc làm gián tiếp (5). Nhiều sản phẩm du lịch 
di sản đã trở thành thương hiệu đặc trưng cho 
du lịch Việt Nam. Đặc biệt, di sản văn hoá còn 
là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt cho 
hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam, kết nối 
và đa dạng hoá các tour, tuyến du lịch xuyên 
vùng và quốc tế. 
3. Quan điểm đường lối, chủ trương, chương 
trình, nghị quyết, định hướng phát triển du 
lịch gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị di 
sản văn hóa Việt Nam
Nhận thức được vai trò của việc phát huy 
các giá trị di sản văn hoá, Nhà nước Việt Nam 
luôn xác định phát triển du lịch phải gắn liền 
với mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị 
văn hoá, góp phần phát triển bền vững. Chủ 
trương này đã được cụ thể hoá trong nội dung 
của Pháp lệnh Du lịch năm 1999, theo đó: “Nhà 
nước Việt Nam xác định du lịch là một ngành 
kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu 
sắc,”; đồng thời “bảo đảm phát triển du lịch 
theo hướng du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, 
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần 
phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam” (7), cũng 
như trong Luật Du lịch năm 2005, theo đó, một 
trong những nguyên tắc cơ bản để phát triển 
du lịch là “phát triển có trọng tâm, trọng điểm 
theo hướng du lịch văn hóa - lịch sử, bảo tồn, 
tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch” 
(3). Luật Du lịch 2017 có nhiều điểm mới, theo 
đó, tại Khoản 2, Điều 4, một trong năm nguyên 
tắc phát triển du lịch là: “Phát triển du lịch gắn 
với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa 
dân tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi 
thế của từng địa phương và tăng cường liên 
kết vùng” (4). Đồng thời, Nghị Quyết 08-NQ/
TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát 
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, 
cũng đã xác định: “Phát triển du lịch bền vững; 
bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các 
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ 
môi trường và thiên nhiên.”(2).
Dựa trên quan điểm về phát triển bền vững 
và kế thừa những tư tưởng và kết quả đạt được 
từ Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam thời 
kỳ 2001 - 2010, Chiến lược phát triển du lịch 
Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 
2030 đưa ra một số quan điểm phát triển trong 
đó có quan điểm về “Phát triển du lịch phải gắn 
với bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống 
dân tộc, tôn trọng văn hoá trong mối quan hệ 
với cộng đồng điểm đến”; “Phát triển du lịch 
gắn với giảm nghèo” được nhấn mạnh (6).
Để thực hiện những quan điểm và nguyên 
tắc trên, Chiến lược về tổ chức lãnh thổ du 
lịch trong giai đoạn tới sẽ tập trung vào một 
số địa bàn trọng điểm, trong đó có những địa 
bàn ưu tiên nơi có tiềm năng du lịch, đặc biệt 
về văn hoá truyền thống song cuộc sống của 
cộng đồng còn nhiều khó khăn như địa bàn 
miền núi Tây Bắc với giá trị văn hoá các dân tộc 
Số 26 - Tháng 12 - 201870
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Thái, Mường, Dao, v.v.; địa bàn Tây Nguyên với 
không gian cồng chiêng Tây Nguyên và văn 
hoá dân tộc Ba Na, Ê Đê, v.v.; địa bàn duyên hải 
Nam Trung Bộ với các di sản văn hoá thế giới 
và văn hoá dân tộc Chăm và Đồng bằng sông 
Cửu Long với giá trị văn hoá sông nước.
Với định hướng ưu tiên phát triển du lịch 
văn hoá và du lịch cộng đồng trong Chiến lược 
phát triển du lịch Việt Nam và với sự hỗ trợ của 
Chính phủ phủ thông qua Chương trình Hành 
động quốc gia về du lịch và nâng cấp hạ tầng 
du lịch, hoạt động phát triển du lịch nói chung, 
du lịch văn hoá và du lịch cộng đồng nói riêng, 
sẽ tiếp tục có cơ hội phát triển. Kết quả hoạt 
động của những mô hình về phát triển du lịch 
văn hóa cộng đồng ở Sa Pa (Lào Cai), du lịch 
văn hoá ở Hội An (Quảng Nam), v.v. là những 
thí dụ minh chứng cụ thể cho nỗ lực bảo tồn 
di sản văn hoá truyền thống và xoá đói giảm 
nghèo thông qua hoạt động phát triển du lịch 
ở Việt Nam trong thời gian qua. Ở một số điểm 
du lịch văn hóa, hoạt động du lịch đã có những 
hỗ trợ tích cực về vật chất, đóng góp cho công 
tác bảo tồn. Ví dụ điển hình về vấn đề này là 
du lịch Hội An, theo đó ngoài nguồn kinh phí 
từ Nhà nước, nguồn thu từ bán vé tham quan 
phố cổ mỗi năm được trích 55% cho việc sửa 
chữa, trùng tu các di tích, nhà cổ. Có những 
ngôi nhà cổ được hỗ trợ tới 300 triệu đồng.
Trong kế hoạch phát triển tới đây, du lịch 
Việt Nam sẽ đẩy mạnh hơn việc nghiên cứu 
khai thác các giá trị văn hoá làng quê để phát 
triển những sản phẩm du lịch văn hoá đậm bản 
sắc dân tộc, hấp dẫn và có sức cạnh tranh để 
thu hút nhiều hơn nữa khách du lịch, đặc biệt 
là khách du lịch quốc tế, góp phần thực hiện 
những mục tiêu chiến lược đặt ra. Song quan 
trọng hơn là thông qua phát triển du lịch làng 
quê, sẽ góp phần bảo vệ và phát huy được các 
giá trị văn hoá truyền thống và tạo cơ hội cho 
cộng đồng người dân ở nông thôn, hiện chiếm 
phần lớn dân số ở Việt Nam, tham gia tích cực 
hơn vào hoạt động du lịch, có thêm thu nhập 
để cải thiện được cuộc sống của mình.
4. Giải pháp tạo sức sống cho di sản văn hóa 
thông qua con đường du lịch
Thực tế minh chứng di sản văn hóa tạo 
sức hấp dẫn vô cùng tận cho điểm đến du 
lịch; di sản văn hóa là động cơ (duyên cớ) cho 
chuyến đi, là môi trường tương tác và trải 
nghiệm đáng giá cho du khách và trở thành tài 
nguyên, nguồn lực chiến lược cho phát triển 
du lịch. Cũng chính sức cuốn hút ấy của di sản 
văn hóa đã tạo nên những làn sóng đầu tư 
vào du lịch di sản, những dòng khách du lịch 
tấp nập đổ về; người người, nhà nhà làm du 
lịch... Điều đó mang lại không chỉ những kết 
quả tăng trưởng lan tỏa nhiều mặt về kinh tế 
- xã hội, mà còn bảo tồn chính di sản văn hóa. 
Nhưng cũng chính quá trình vận động du lịch 
ồ ạt thiếu kiểm soát ở nhiều nơi đang gieo rắc 
không ít những tác động tiêu cực tới di sản 
văn hóa, tạo ra những hệ lụy phải trả giá đắt. 
Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi các bên 
cùng hành động, có những biện pháp kiểm 
soát thích đáng để bảo tồn và phát huy bền 
vững đối với di sản văn hóa trong phát triển du 
lịch. Do đó, phát huy thế mạnh về tài nguyên 
di sản văn hóa, trong đó lấy du lịch di sản là 
hướng trọng tâm có tính chìa khóa hướng tới 
mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành 
kinh tế mũi nhọn, đòi hỏi các bên cùng hành 
động, có những giải pháp hữu hiệu về bảo tồn 
và phát huy bền vững đối với di sản văn hóa 
trong phát triển du lịch, cụ thể:
Một là, quan tâm đến việc ban hành văn 
bản quy phạm pháp luật, hoạch định chính 
sách quản lý và quy hoạch bảo tồn và phát 
huy bền vững giá trị của di sản văn hóa trong 
phát triển du lịch; bảo tồn và phát huy giá trị 
di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, giá trị văn 
hóa truyền thống gắn với quy hoạch phát triển 
du lịch.
71Số 26 - Tháng 12 - 2018
VĂN HÓA DU LỊCH
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Hai là, có chiến lược phát triển du lịch văn 
hóa phù hợp, trong đó lựa chọn sản phẩm du 
lịch dựa trên phát huy giá trị di sản văn hóa; 
phát triển du lịch có trách nhiệm gắn với văn 
hóa cộng đồng; tôn trọng đa dạng văn hóa, 
đề cao vai trò văn hóa bản địa; nâng cao nhận 
thức, bảo vệ lợi ích và phát huy vai trò của 
cộng đồng dân cư địa phương trong phát triển 
du lịch văn hóa.
Ba là, định hướng hoạt động du lịch và các 
hoạt động dân sinh khác trong lòng di sản một 
cách bền vững; quy định chi tiết về quy tắc 
ứng xử với di sản; những gì được làm, không 
được làm, những gì nên, không nên làm; kiểm 
soát nghiêm ngặt tác động về sức chứa, loại 
hình hoạt động và cân bằng nhịp sống của hệ 
sinh thái tại di sản; khuyến khích cộng đồng 
địa phương chủ động cùng tham gia quản lý 
di sản, gắn lợi ích của cộng đồng địa phương 
với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Bốn là, xây dựng hệ thống dữ liệu số hóa về 
di sản văn hóa Việt Nam, ứng dụng công nghệ 
4.0 trong quản lý khai thác di sản văn hóa và 
phát triển du lịch di sản; tăng cường đào tạo kỹ 
năng thuyết minh và ứng dụng thuyết minh tự 
động để làm thăng hoa giá trị cho di sản trong 
hoạt động hướng dẫn du lịch và phát triển sản 
phẩm du lịch thông minh.
Năm là, xử lý nghiêm, triệt để những vi 
phạm đối với di sản, gắn liền với quá trình 
tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức 
cho doanh nghiệp, người dân và du khách; 
khuyến khích, tôn vinh các hoạt động du lịch 
tình nguyện, tự nguyện đóng góp nguồn lực, 
trí tuệ cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di 
sản văn hóa.
Du lịch có trách nhiệm sẽ là con đường đạt 
tới phát triển du lịch bền vững. Để thực hiện 
được mục tiêu này, bên cạnh chính sách hỗ trợ 
cho nguồn lực bảo vệ văn hóa, môi trường, cần 
có sự hợp tác của các doanh nghiệp du lịch, 
truyền thông. Đồng thời, du khách cũng cần 
nêu cao ý thức để “du lịch có trách nhiệm” như 
phản xạ có trong mỗi người nhằm phát huy 
các giá trị động lực, tạo sức lan tỏa của hoạt 
động du lịch, tăng cường đóng góp tích cực từ 
các hoạt động này cho sự nghiệp bảo tồn giá 
trị văn hóa thông qua con đường du lịch nhằm 
phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương 
nói riêng và của quốc gia nói chung.
 H.V.S
(TS., Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch)
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2018), Báo 
cáo về công tác bảo vệ và phát huy gía trị di sản 
văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững, trong 
Kỷ yếu Hội nghị Bảo vệ và phát huy giá trị di sản 
văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững, Hà 
Nội, tháng 7 năm 2018.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết 
của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành 
ngành kinh tế mũi nhọn (Nghị quyết số 08-NQ/
TW ngày 16/01/2017).
3. Quốc hội Nước CHXHCNVN (2005), Luật Du 
lịch (Luật số 44/2005/QH11 ngày14/6/2005).
4. Quốc hội Nước CHXHCNVN (2017), Luật Du 
lịch (Luật số 09/2017/QH14 ngày 19/6/2017).
5. Hà Văn Siêu (2018), Yêu cầu đặt ra trong xây 
dựng Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai 
đoạn tới, 
php/items/26876
6. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 
phê duyệt “Chiến phát triển lược phát triển du lịch 
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” 
(Quyết định số 2473/QĐ-TTg, ngày 30/12/2011). 
7. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1999), Pháp 
lệnh Du lịch (Pháp lệnh số 11/1999/PL-UBTTQH10 
ngày 08/02/1999).
8. 
 Ngày nhận bài: 6 - 10 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 11 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 23 - 12 - 2018

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_va_phat_huy_gia_tri_di_san_van_hoa_viet_nam_thong_qu.pdf