Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam

Trong những năm gần đây, công nghệ chuỗi khối (blockchain) đang trở thành trào lưu “nóng” trên

toàn thế giới và ở Việt Nam. Công nghệ này có các ứng dụng to lớn tiềm năng ở nhiều ngành công

nghiệp khác nhau, từ các dịch vụ tài chính, sản xuất, khu vực công đến các chuỗi cung ứng, giáo dục

và năng lượng. Theo các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp ở các thị trường mới nổi như Việt Nam

được kỳ vọng đạt doanh số 1 nghìn tỷ USD1. Bài viết giới thiệu tổng quan về sáng chế, xu hướng bảo

hộ và các lĩnh vực sáng chế liên quan đến công nghệ chuỗi khối đối với cả chủ đơn trong và ngoài

nước, đồng thời xem xét khả năng bảo hộ của loại sáng chế này trong tương lai.

Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 8820
Bạn đang xem tài liệu "Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam

Bảo hộ sáng chế về công nghệ chuỗi khối tại Việt Nam
nhau. Tuy nhiên, Hàn Quốc đã có 
sự tăng trưởng nhanh từ năm 2014 
và phát triển mạnh mẽ kể từ năm 
2016 (số đơn trong năm 2017 đã 
tăng 2,5 lần so với năm 2016 và số 
đơn trong năm 2018 đã tăng 1,3 
lần so với năm 2017). Nhật Bản và 
Trung Quốc đã chứng minh được 
sự tăng trưởng mạnh mẽ trong giai 
đoạn 2007-2018 (trung bình lần 
lượt là 19 và 20%). Đối với Hoa 
Kỳ, mặc dù từng là nước nộp đơn 
hàng đầu đối với các đơn đăng ký 
sáng chế chuỗi khối trước năm 
2011, nhưng sau đó đã bị vượt 
qua bởi Hàn Quốc, Nhật Bản và 
Trung Quốc. Số đơn đăng ký sáng 
chế chuỗi khối được nộp bởi các 
chủ đơn đến từ Hoa Kỳ giảm mạnh 
từ 26 (vào năm 2010) xuống chỉ 
còn 2 (vào năm 2011); và kể từ 
năm 2012, mặc dù số lượng đơn 
đã phục hồi nhưng không có sự 
nhảy vọt trở lại. Tương tự, trước 
năm 2012, Phần Lan (đáng chú ý 
là Nokia) từng là một trong các chủ 
đơn sáng chế hàng đầu trong lĩnh 
vực công nghệ chuỗi khối ở Việt 
Nam, nhưng kể từ sau đó Nokia 
chỉ nộp rất ít đơn hàng năm.
Mười chủ đơn đăng ký sáng 
chế đã nộp hầu hết liên quan đến 
sáng chế chuỗi khối tại Việt Nam 
(chiếm 42% trong tổng số), trong 
đó Qualcomm, Tencent, Samsung 
và Nokia dẫn đầu (hình 3). Thú vị 
là, Tencent, Nokia và Qualcomm 
có các tỷ lệ phê chuẩn cao hơn 
so với các nước khác (lần lượt là 
65, 47,7 và 42%). Điều này có thể 
được giải thích bằng thực tế rằng, 
Samsung và Huawei (mỗi chủ đơn 
có rất ít sáng chế được cấp văn 
bằng bảo hộ) mới bắt đầu tăng 
số lượng đơn đăng ký sáng chế từ 
năm 2014 trở đi, trong khi đó từ lúc 
nộp đơn đến khi cấp bằng trung 
bình mất từ 3 đến 5 năm, nên có 
thể có độ trễ nhất định trước khi 
cấp văn bằng bảo hộ. Các công 
ty khác cũng đã nộp số lượng 
đơn đáng kể bao gồm Thomson 
Licensing (Pháp), Einnovations 
Holdings (Singapore), Hitachi và 
Toshiba.
Hình 2. Tổng số đơn đăng ký sáng chế chuỗi khối được nộp tại việt Nam của 10 
nước/vùng lãnh thổ nộp đơn hàng đầu được công bố đến ngày 25/6/2019.
Hình 3. số đơn đăng ký sáng chế chuỗi khối được nộp bởi 10 công ty nộp đơn hàng 
đầu được công bố cho đến 25/6/2019.
18
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 6 năm 2021
Các lĩnh vực và xu hướng phát triển 
các sáng chế liên quan đến công nghệ 
chuỗi khối
Từ hình 4, chúng ta có thể quan 
sát được số lĩnh vực ứng dụng 
chính trong công nghệ chuỗi khối 
có nhiều đơn đăng ký sáng chế 
đã và đang được nộp ở Việt Nam 
dựa theo hệ thống phân loại sáng 
chế quốc tế (International Patent 
Classification). Có thể thấy, các 
lĩnh vực kinh doanh, thương mại và 
phương thức thanh toán đứng đầu 
bên cạnh các lĩnh vực liên quan 
tới mạng kết nối (networking), bảo 
mật thông tin, truyền thông và bảo 
mật máy tính. Cụ thể là:
Các sáng chế trong mảng kiến 
trúc mạng hay giao thức mạng 
truyền thông phục vụ bảo mật dẫn 
đầu và chiếm 22,2% tổng lượng 
đăng ký sáng chế ở Việt Nam. Các 
chủ đơn nổi bật thuộc lĩnh vực này 
gồm Qualcomm (Hoa Kỳ), Nokia 
(Phần Lan), Huawei (Trung Quốc) 
và Thomson Licensing (Pháp).
Xếp thứ hai bao gồm các hệ 
thống hoặc phương pháp được 
thiết kế riêng cho một nhóm ngành 
kinh doanh cụ thể như điện nước 
hay du lịch, chiếm 17,18% tổng 
lượng đăng ký. Các chủ đơn hàng 
đầu mảng này gồm Samsung, 
Hitachi, Toshiba, và Beijing Didi 
Infinity Technology.
Đứng thứ ba trong tổng lượng 
đăng ký là các sáng chế trong lĩnh 
vực thương mại, ví dụ như mua 
sắm hay thương mại điện tử. Các 
chủ đơn tiêu biểu gồm Tencent, 
Hitachi, Điện tử Samsung, Tập 
đoàn Panasonic (Panasonic 
Intellectual Property Corporation 
of America), Einnovations và Tập 
đoàn dịch vụ bưu kiện thống nhất 
Hoa Kỳ (UPS).
Xếp thứ tư là các quy trình nhằm 
đảm bảo việc truyền tin bảo mật 
(ứng dụng tới mật mã học hoặc 
các cơ chế trong mật mã học), 
chiếm 12,74% tổng lượng đăng ký. 
Các chủ đơn hàng đầu là Nokia, 
Qualcomm, Huawei và Tencent 
(Trung Quốc), Công ty Certo (Hoa 
Kỳ) và NTT Docomo (Nhật Bản). 
Thứ năm là các sáng chế 
liên quan đến các phương pháp 
chuyên biệt hóa cho từng mạng 
lưới hoặc phương thức truyền 
thông hỗ trợ các ứng dụng kết nối, 
chiếm 12,07% tổng số đơn đăng 
ký. Các chủ đơn lớn gồm Nokia, 
Qualcomm, Tencent, Huawei và 
Thomson Licensing (Pháp).
Thứ sáu là các sáng chế liên 
quan đến kiến trúc, phương án 
hoặc quy trình thanh toán, chiếm 
11,29% tổng lượng đăng ký. Các 
chủ đơn tiêu biểu gồm Samsung, 
Einnovations (Singapore), Hitachi 
(Nhật Bản) và MasterCard (Hoa 
Kỳ).
Thứ bảy là các sáng chế liên 
quan tới các phương pháp nhằm 
bảo vệ máy tính, thành phần máy 
tính, phần mềm và dữ liệu khỏi các 
hoạt động vượt ngoài thẩm quyền 
cho phép, chiếm 8,88% tổng 
lượng đăng ký. Các chủ đơn tiêu 
biểu là Huawei, Nokia, Samsung, 
Tencent. 
Ngoài ra, còn một số lượng nhỏ 
(0,29%) là các sáng chế về tìm 
kiếm thông tin, các cấu trúc dữ liệu 
và các cấu trúc hệ tệp tin.
Hiện tại, công nghệ chuỗi khối 
vẫn còn tương đối mới ở Việt Nam, 
nhưng cộng đồng khởi nghiệp 
đang phát triển mạnh mẽ trong lĩnh 
vực này. Dù đa số thị trường trong 
nước chỉ mới quan tâm đến một 
ứng dụng của công nghệ này như 
tiền ảo (bitcoin), nhưng tiềm năng 
thay đổi cuộc chơi của công nghệ 
này giống như cuộc đua trong cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0. Công 
nghệ chuỗi khối đã được áp dụng 
rộng rãi ở Việt Nam ở các lĩnh vực 
như dịch vụ tài chính (83%), chuỗi 
giá trị (40%), dịch vụ công (30%) 
và nhiều doanh nghiệp trong ngân 
hàng, kiểm toán hay bảo hiểm 
đã có kế hoạch phát triển và ứng 
dụng công nghệ này2. 
Hình 4. Biểu đồ dạng cây (tree map) thể hiện các loại sáng chế chính trong công 
nghệ chuỗi khối được công bố ở việt Nam tính đến ngày 25/6/2019.
2https://techtalk.vn/thi-truong-blockchain-
vietnam-2019-tiem-nang-tro-thanh-la-co-dau-
cua-khu-vuc-dong-nam-a.html.
19
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 6 năm 2021
Các công ty Việt Nam đã nộp 
một số lượng đơn đăng ký sáng 
chế chuỗi khối khá ấn tượng - tổng 
cộng 69 đơn (tương đương với Phần 
Lan). Các đơn này đã được nộp 
bởi trên dưới 40 chủ đơn với thành 
phần đa dạng, từ các tập đoàn lớn, 
viện nghiên cứu/trường đại học 
đến các công ty khởi nghiệp cũng 
như doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
Các lĩnh vực nhận được nhiều sự 
quan tâm của doanh nghiệp gồm 
các phương pháp/sản phẩm bảo 
mật truyền thông (khoảng 24,0%), 
thương mại (khoảng 22,8%), các 
phương pháp/sản phẩm nhằm 
bảo vệ máy tính, thành phần máy 
tính, phần mềm và dữ liệu khỏi các 
hoạt động vượt ngoài thẩm quyền 
cho phép (khoảng 15,0%), kiến 
trúc, phương án hoặc quy trình 
thanh toán (khoảng 10,0%). Các 
chủ đơn Việt Nam tiêu biểu trong 
công nghệ chuỗi khối được liệt kê 
ở bảng 1.
Khả năng bảo hộ của các sáng chế 
liên quan đến công nghệ chuỗi khối 
Theo Luật Sở hữu trí tuệ - 
SHTT (ban hành năm 2005, sửa 
đổi, bổ sung năm 2009 và 2019), 
sáng chế là một giải pháp kỹ thuật 
dưới dạng “sản phẩm” hoặc “quy 
trình” nhằm giải quyết một vấn đề 
kỹ thuật xác định bằng việc ứng 
dụng các quy luật tự nhiên, không 
trái với đạo đức xã hội, trật tự công 
cộng, gây hại cho quốc phòng, an 
ninh, không thuộc các đối tượng 
không được bảo hộ dưới danh 
nghĩa sáng chế và phải đáp ứng 
các điều kiện bảo hộ (tính mới, 
tính sáng tạo và khả năng áp dụng 
công nghiệp)3. 
Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa 
có các quy định pháp luật hay quy 
chế thẩm định cụ thể riêng với 
các sáng chế liên quan đến công 
nghệ chuỗi khối. Các công nghệ 
chuỗi khối được phân loại thành 
hai hướng: công nghệ chuỗi khối 
“lõi” và công nghệ chuỗi khối “ứng 
dụng”. Các công nghệ chuỗi khối 
“lõi” có thể xuất hiện trong các 
công nghệ về mật mã, hàm băm, 
lưu trữ phân tán, các cơ chế đồng 
thuận và các biện pháp chống can 
thiệp. Các công nghệ chuỗi khối 
“ứng dụng” được sử dụng trong các 
phương pháp kinh doanh, quản 
lý chuỗi cung ứng, thiết bị không 
dùng tiền, các ứng dụng không 
dây, quản lý bệnh nhân và truy 
cập dữ liệu bệnh nhân, chống trộm 
trên phương tiện vận chuyển4. Đối 
chiếu với quy định tại Điều 59, Luật 
SHTT, các đối tượng yêu cầu bảo 
hộ5 có liên quan đến các phương 
pháp toán học, phương pháp kinh 
doanh, phương pháp thực hiện 
trò chơi, chương trình máy tính 
hay cách thức thể hiện thông tin 
là các đối tượng không được bảo 
Bảng 1. Một số chủ đơn việt Nam tiêu biểu trong công nghệ chuỗi khối và sáng 
chế đăng ký bởi họ.
TT Chủ dơn
Số lượng bằng 
sáng chế chuỗi 
khối
Tổng 
số bằng 
sáng chế
Ví dụ 
1 7 80
 Quy trình xác định tên 
miền độc hại 
 Quy trình xây dựng đồ thị 
uy tín trên kết nối internet và 
cảnh báo phần mềm độc hại
2 5 122
 Phương pháp và hệ thống 
tái sử dụng khóa mã để đảm 
bảo thông lượng trong kịch 
bản mã hóa khối đa luồng 
 Hệ thống điều khiển liên 
thông cho mã hóa khối đa 
luồng
3 3 8
 Phương pháp chặn thông 
minh tin nhắn rác cho điện 
thoại di động 
 Phương pháp diệt rootkit 
không cần cập nhật sẵn mẫu 
nhận diện
4 3 155
 Hệ thống quản lý kho và 
vật tư sử dụng thiết bị đọc 
mã vạch di động
5 2 2
 Phương pháp nâng cao 
tính bảo mật và giảm các 
thao tác thực hiện để thanh 
toán giao dịch thương mại
3điều 4, Khoản 12 và điều 8, 58, 59 Luật ShTT.
4EPO, Bàn luận về cuộc cách mạng mới: 
blockchain, Báo cáo hội thảo, tháng 12/2018.
5Phạm vi (yêu cầu) bảo hộ (hay còn gọi là các 
điểm yêu cầu bảo hộ) được dùng để xác định 
phạm vi quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng 
chế. Phạm vi (yêu cầu) bảo hộ của sáng chế 
bao gồm các dấu hiệu kỹ thuật cơ bản cần và 
đủ để xác định được đối tượng yêu cầu bảo hộ, 
để đạt được mục đích đề ra và để phân biệt đối 
tượng với đối tượng đã biết.
20
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 6 năm 2021
hộ độc quyền dưới danh nghĩa 
sáng chế. Ngoài ra, trong Quy chế 
thẩm định đơn đăng ký sáng chế 
của Cục SHTT có một số hướng 
dẫn có thể có liên quan đến đối 
tượng về “chương trình máy tính”. 
Cụ thể, quy chế này xác định đối 
tượng “chương trình máy tính” là 
một dạng sáng chế thực hiện bằng 
máy tính (“computer-implemented 
invention” - CII)6, cụ thể liên quan 
đến máy tính, mạng máy tính, và 
thiết bị có thể lập trình được, trong 
đó một hoặc một số đặc điểm/dấu 
hiệu kỹ thuật của sáng chế được 
thực hiện bởi chương trình máy tính. 
Trên thực tế, về cơ bản, các tiêu 
chí thẩm định đơn đăng ký sáng 
chế của Việt Nam có các quy định 
tương đồng theo các khung tiêu 
chuẩn thẩm định đơn sáng chế ở 
châu Âu. Gần đây, Cơ quan Sáng 
chế châu Âu (EPO) đã xem xét 
các điểm (đối tượng) yêu cầu bảo 
hộ sáng chế thuộc lĩnh vực công 
nghệ chuỗi khối được xếp loại và 
thẩm định giống như đối với các 
sáng chế thực hiện bởi máy tính 
(CII)7. Cụ thể, khi đánh giá tiêu 
chuẩn bảo hộ của sáng chế chuỗi 
khối, sáng chế đó phải trải qua 
hai bước kiểm tra: thứ nhất, kiểm 
tra khả năng bảo hộ dưới danh 
nghĩa sáng chế hay không, nghĩa 
là nó có phải là một sáng chế hay 
không và có bao hàm khía cạnh 
kỹ thuật liên quan nào không? (do 
“blockchain” sử dụng các phương 
pháp mã hóa “cryptographic” nên 
tất cả các sáng chế liên quan đến 
công nghệ chuỗi khối đều có thể 
đáp ứng tiêu chí này); thứ hai, 
đánh giá tính mới và tính sáng tạo 
của sáng chế, trong đó thẩm định 
viên sẽ đánh giá các yếu tố nào là 
dấu hiệu kỹ thuật và không phải là 
dấu hiệu kỹ thuật trong một điểm 
yêu cầu bảo hộ8. 
Riêng với đối tượng “chương 
trình máy tính/phần mềm máy 
tính” (dạng vô hình) mặc dù là 
một đối tượng không được bảo 
hộ dưới danh nghĩa sáng chế tại 
Việt Nam theo quy định của Luật 
SHTT, nhưng trong thực tế, Cục 
SHTT chấp nhận dạng sửa đổi 
của đối tượng được thể hiện dưới 
dạng “sản phẩm” hoặc “quy trình” 
(dạng hữu hình) (ví dụ, “vật ghi - 
hay vật ghi đọc được bằng máy 
tính chứa chương trình máy tính”), 
và có các “đặc tính kỹ thuật”9 và là 
một giải pháp kỹ thuật nhằm giải 
quyết một vấn đề kỹ thuật bằng 
phương tiện kỹ thuật để tạo ra hiệu 
quả kỹ thuật, thì đối tượng đó có 
khả năng bảo hộ sáng chế. Do đó, 
một đối tượng yêu cầu bảo hộ liên 
quan đến chương trình máy tính, 
mà khi được chạy trên máy tính 
và có thể đạt được/tạo ra hiệu quả 
kỹ thuật nằm ngoài các “tương tác 
vật lý” thông thường giữa chương 
trình (phần mềm) và máy tính 
(phần cứng), thì sẽ có khả năng 
được bảo hộ dưới danh nghĩa 
sáng chế miễn là được thể hiện ở 
dạng đối tượng được diễn đạt phù 
hợp10. Bên cạnh đó, trong Quy 
chế thẩm định nêu trên của Cục 
SHTT cũng nêu/gợi một số hướng 
dẫn soạn thảo/cách viết yêu cầu 
bảo hộ liên quan chương trình máy 
tính. Cụ thể, việc bắt đầu một đối 
tượng bảo hộ cụ thể ở mỗi yêu cầu 
bảo hộ phải tránh các cách diễn 
đạt như “sản phẩm của chương 
trình”, “phần mềm máy tính”, “sản 
phẩm chương trình máy tính”, “sản 
phẩm phần mềm máy tính” hoặc 
các thuật ngữ tương đương do đối 
tượng “sản phẩm” của một sáng 
chế thì phải được hiểu là một đối 
tượng hữu hình chứ không phải 
một sản phẩm không nhìn thấy 
được (vô hình). 
Nhìn rộng hơn hay nói cách 
khác, nếu một đối tượng được yêu 
cầu bảo hộ liên quan đến các đối 
tượng theo Điều 59 Luật SHTT 
(các đối tượng không được bảo hộ 
dưới danh nghĩa sáng chế), ví dụ 
như chương trình máy tính, nhưng 
nếu đối tượng này còn được thực 
hiện bởi hay liên quan đến thiết 
bị hay quy trình kỹ thuật với các 
đặc điểm/đặc tính kỹ thuật, thì đối 
tượng đó hoàn toàn có thể xem xét 
đăng ký sáng chế. 
Tóm lại, các sáng chế liên quan 
đến công nghệ chuỗi khối có thể 
được bảo hộ nếu phạm vi/yêu cầu 
bảo hộ của chúng có các “đặc tính 
kỹ thuật” và phải là một giải pháp 
kỹ thuật nhằm giải quyết một vấn 
đề kỹ thuật bằng phương tiện kỹ 
thuật và tạo ra hiệu quả kỹ thuật ?
10Điều 5.8.2.5 Quy chế thẩm định đơn đăng 
ký sáng chế (Quy chế này hướng dẫn thực hiện 
các thủ tục thẩm định đơn đăng ký sáng chế 
bao gồm thẩm định hình thức và thẩm định 
nội dung và quy định một số yêu cầu về quản 
lý hành chính liên quan đến hoạt động thẩm 
định đơn).
8Xem chú thích 4.
9“Đặc tính kỹ thuật” hay “Technical Character” 
là một thuật ngữ xuất phát từ Quyết định 
T0258/03 của Phòng Khiếu nại của Cơ quan 
sáng chế châu Âu, được ban hành ngày 
21/2/2004. Quyết định cho rằng sự có mặt 
của phần cứng máy tính trong một điểm yêu 
cầu bảo hộ liên quan đến “phương pháp kinh 
doanh” mà tạo ra “đặc tính kỹ thuật” thì sẽ 
đủ khắc phục từ chối liên quan đến đối tượng 
không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế, 
bất kể sự đóng góp về mặt kỹ thuật của nó. 
Quyết định này là một trong các điểm quan 
trọng và ảnh hưởng đáng kể đến việc đánh giá 
đặc tính kỹ thuật và tính sáng tạo của sáng chế.
6Sáng chế thực hiện bằng máy tính (computer-
implemented invention - CII) là sáng chế liên 
quan đến việc sử dụng máy tính, mạng máy 
tính hoặc thiết bị lập trình khác, trong đó một 
hoặc nhiều dấu hiệu kỹ thuật được nhận biết 
bằng chương trình máy tính.
7h t tp s : / / e -cou r se s . epo .o rg /p lug in f i l e .
php/33124/mod_resource/content/8/index.
html.

File đính kèm:

  • pdfbao_ho_sang_che_ve_cong_nghe_chuoi_khoi_tai_viet_nam.pdf