Bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số: Thực tiễn một số tỉnh Tây Bắc
Tại khu vực Tây Bắc Bộ Việt Nam với hơn 20 dân tộc cùng chung sống, bên cạnh nhiệm
vụ đảm bảo sinh kế, xóa đói giảm nghèo cho các dân tộc thiểu số (DTTS) là nhiệm vụ bảo
tồn, phát huy văn hóa các DTTS trước sự mai một văn hóa truyền thống. Điều này có ý
nghĩa quan trọng trong bảo đảm quyền văn hóa cũng như thực hiện thành công chính sách
dân tộc trong thời gian tới. Bài viết khái quát các quy định về bảo đảm quyền văn hóa của
các DTTS ở nước ta cũng như đánh giá thực trạng bảo đảm quyền văn hóa tại một số tỉnh
khu vực Tây Bắc Bộ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số: Thực tiễn một số tỉnh Tây Bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số: Thực tiễn một số tỉnh Tây Bắc
ng, nhiều trò chơi dân gian của các DTTS, hỗ trợ tiếp cận với các phương tiện phát thanh, truyền hình để từng bước cải thiện, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Các chương trình phát thanh, truyền hình bằng cả tiếng Việt và 26 thứ tiếng dân tộc được phát sóng mở rộng tới các bản làng xa xôi. Công tác giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí ở vùng có đông người DTTS sinh sống cũng được quan tâm đẩy mạnh và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường dạy nghề; các loại hình trường nội trú, bán trú, dự bị đại học dân tộc tại vùng có đông DTTS đều được đầu tư xây dựng. Từ năm 2012, 100% xã đã đạt chuẩn phổ cập tiểu 4 Nguyễn Đăng Dung (2015), tlđd BẢO ĐẢM QUYỀN VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ:... 92 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 học, nhiều nơi đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở, 95% trẻ em DTTS được đến trường5. Từ năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hợp tác với UNICEF thí điểm thực hiện giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ nhằm bảo tồn, phát huy ngôn ngữ DTTS. Đây là những kết quả quan trọng khẳng định quyền bảo tồn văn hóa riêng về phong tục, tập quán, trang phục, tín ngưỡng, ngôn ngữ cũng như hưởng thụ các giá trị văn hóa chung của các DTTS ở nước ta. Đặc biệt, từ năm 2009, Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 19/4 là ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam nhằm tôn vinh, giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam. Thành tựu trong việc đảm bảo quyền phát triển và phát huy văn hóa các DTTS là những minh chứng rõ ràng, cụ thể nhất về thúc đẩy quyền tộc người nói riêng và quyền con người nói chung tại Việt Nam. 2. Bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số tại một số các tỉnh khu vực Tây Bắc Bộ 2.1. Khái quát văn hóa các dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc Tây Bắc Bộ là một trong những khu vực đông người DTTS sinh sống nhất của nước ta, với hơn 20 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có những DTTS rất ít người. Chính vì vậy, văn hóa các DTTS ở vùng này rất đa dạng và phong phú. Theo nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, ở khu vực Đông Nam Á, văn hóa đặc trưng của nhiều dân tộc đã bị hòa quyện với các tôn giáo, các học thuyết chính trị - xã hội, trong khi đó văn hóa các DTTS Tây Bắc ở nước ta vẫn giàu tính chất riêng, tính đặc trưng chưa bị ảnh hưởng của những yếu tố này6. Đặc trưng của văn hóa các DTTS Tây Bắc là văn hóa dân gian, văn hóa của người lao động sáng tạo gắn liền với các hoạt động sản xuất, đời sống xã hội của người dân. Nhiều yếu tố văn hóa xuất phát từ thời xa xưa nên trong phương thức thể hiện còn có những biểu hiện mê tín, chưa tiến bộ, dễ che mất đi giá trị của những yếu tố văn hóa tươi đẹp riêng có7. 5 Nguyễn Thị Song Hà (2016), Đảm bảo quyền cơ bản của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 4 (101), 2016. 6 Tô Ngọc Thanh (2008), Giữ gìn và phát triển di sản văn hóa của các dân tộc Tây Bắc, Báo Nhân dân điện tử số 9/2008. 7 Nguyễn Thị Song Hà (2016), tlđd Tuy nhiên, trong sự thay đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế, hội nhập quốc tế, các yếu tố văn hóa đặc trưng của các DTTS ở vùng này đang có những biến chuyển mạnh mẽ. Thực trạng đáng báo động của văn hóa các dân tộc Tây Bắc đó là nguy cơ bị hòa tan, hòa nhập văn hóa các dân tộc với nhau, nhất là các dân tộc rất ít người hiện đang có nguy cơ suy giảm dân số. Cùng với đó, lớp thanh niên trẻ cũng đang được tiếp cận với đời sống hiện đại với rất nhiều giá trị văn hóa khác biệt. 2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số tại một số tỉnh Tây Bắc Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tộc người, thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa giai đoạn 2020 và giai đoạn 2021-2025, các tỉnh Tây Bắc đã đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quyền văn hóa của các DTTS, cụ thể như sau: Một là, điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và văn hóa phi vật thể; các loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn hóa dân gian của từng địa phương, từng vùng văn hóa, từng vùng dân tộc; nghề thủ công truyền thống, lễ hội tiêu biểu, kho tàng Hán Nôm. Đến năm 2015, Tây Bắc đã có 7 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia8. Bên cạnh đó, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học các cấp đã được triển khai để bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS. Việc sưu tầm, phát huy các sản phẩm văn hóa truyền thống của các DTTS được kết hợp hài hòa với phát triển kinh tế, du lịch bền vững tại Tây Bắc. Mô hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa được mở rộng với các sản phẩm du lịch độc đáo, đặc trưng, các hoạt động du lịch mạo hiểm, chương trình du lịch liên kết giữa các tỉnh Tây Bắc đều được đánh giá cao. Các tỉnh trong vùng cũng đã và đang tạo nên thương hiệu cho nhiều địa danh của miền núi phía Bắc. Hai là, tổ chức điều tra, sưu tầm, xây dựng 8 Sơn La có 2 di sản: Lễ Hết Chá của người Thái, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu và Nghệ thuật Xòe Thái tỉnh Sơn La; Điện Biên có 3 di sản: Lễ Kin pang then của người Thái trắng (thị xã Mường Lay), Tết Nào pê chầu của người Mông đen (xã Mường Đăng, huyện Mường Ẳng), Lễ hội Đền Hoàng Công Chất (xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên); Lai Châu có 1 di sản: Nghệ thuật Xòe Thái (tỉnh Lai Châu); Yên Bái có 1 di sản: Nghệ thuật Xòe Thái (Mường Lò, thị xã Nghĩa Lộ). MA THỊ THANH HIẾU 93Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát ngân hàng dữ liệu về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể tiêu biểu như lễ hội, nghi lễ, tập quán, luật tục. Hoạt động này đã đạt được nhiều kết quả như: Tỉnh Lai Châu đã sưu tầm trên 31 nghìn hiện vật, trong đó có gần 1.900 hiện vật văn hóa dân tộc; kiểm kê lập danh mục di sản văn hóa phi vật thể 13 dân tộc cư trú thành cộng đồng; phối hợp tổ chức mở được 13 lớp truyền dạy văn hóa phi vật thể các dân tộc. Sưu tầm, bảo tồn tri thức dân gian của hai dân tộc Dao và Hà Nhì; 6 làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc: Thái, Si La, Lự, Mông, Hà Nhì, Dao; phục dựng 16 lễ hội của các dân tộc, đồng thời hằng năm duy trì tổ chức 40 lễ, lễ hội. 05 lễ hội vùng Tây Bắc được phục dựng, bảo tồn cấp quốc gia. Luật tục truyền thống của các DTTS Thái, Mường, Mông, Dao được sưu tầm, nghiên cứu rộng rãi, nhiều quy định luật tục tiến bộ được chuyển hóa vào Quy ước bảo vệ rừng, Quy chế dân chủ cơ sở, hoạt động hòa giải thôn bản, góp phần tích cực vào hoạt động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường, quản lý cộng đồng và giữ an ninh thôn bản vùng biên giới. Các chương trình biểu diễn nghệ thuật, các hội thi, hội diễn, liên hoan nghệ thuật quần chúng được tổ chức thường xuyên, hiệu quả. Hầu hết các địa phương trong tỉnh duy trì tốt việc tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc trong các dịp lễ, tết. Ở Điện Biên, các sắc màu văn hóa tộc người cũng được chú trọng khai thác và phát triển trong các chương trình biểu diễn nghệ thuật quần chúng và đỉnh cao là Lễ hội Hoa ban, bắt đầu tổ chức thường niên từ tháng 3/2016 tại thành phố Điện Biên Phủ. 2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân trong bảo đảm quyền văn hóa của các dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ nêu trên, việc bảo đảm quyền văn hóa của các DTTS khu vực Tây Bắc cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Có thể kể đến là: Một là, việc bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS không được tiến hành đồng đều giữa các dân tộc, giữa các tỉnh trong khu vực. Các giá trị văn hóa đang bị mai một, đồng hóa nghiêm trọng trong nhiều cộng đồng DTTS, nhất là nhóm dân tộc ít người và rất ít người. Ví dụ: Các dân tộc ít người nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me như: Kháng, Mảng, Khơ Mú đang có nguy cơ bị “Thái hóa”. Các dân tộc ở vùng biên giới với Trung Quốc lại có nguy cơ bị “Hán hóa”, “Choang hóa” Còn các dân tộc ở vùng ven đô thị, ven đường giao thông lại có nguy cơ “Kinh hóa”. Người Hà Nhì ở Y Tý (Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu) bỏ trang phục truyền thống của dân tộc mình và mặc trang phục của người Hà Nhì - Trung Quốc sản xuất bằng vải công nghiệp. Tương tự như vậy, người Mông ở khu vực Tây Bắc cũng bỏ trang phục sản xuất thủ công để mua trang phục mà nguyên liệu được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp của Trung Quốc. Sự mai một về bản sắc văn hóa tộc người còn phản ánh ở số nghệ nhân giỏi về âm nhạc truyền thống đã mất đi, lớp trẻ rất ít biết sử dụng nhạc cụ của cha ông để lại, nhiều thanh niên không thuộc một bài, một làn điệu dân ca9. Nguyên nhân đầu tiên của sự mai một văn hóa truyền thống trong các tộc người là tác động của xu hướng toàn cầu hóa, giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ. Mặt khác, một bộ phận giới trẻ còn thiếu tự tin, thiếu tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc mình. Họ quan niệm mình nói tiếng DTTS, mặc trang phục truyền thống của dân tộc mình là lạc hậu. Thậm chí, có người còn muốn “Kinh hóa”, chỉ đến khi muốn nhận các chế độ ưu đãi về học tập, việc làm thì mới tự nhận mình là dân tộc thiểu số10. Hai là, một số chính sách, chủ trương bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS chưa được tiến hành đồng bộ, triệt để, chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo các địa phương. Tuy các cấp ủy, chính quyền đã có nhận thức đúng đắn về vai trò của việc bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống các dân tộc nhưng một bộ phận nhân dân và các cấp ủy, chính quyền còn chưa có nhận thức đầy đủ, dẫn đến tình trạng mức độ quan tâm còn thấp, hiệu quả chưa cao. Trong đó, công tác tuyên truyền trong nhân dân, đặc biệt là đối với đồng bào DTTS về bảo tồn di sản văn hóa chưa được chú trọng. Một số nội dung cần bảo tồn gấp như ngôn ngữ, tri thức bản địa, luật tục của các dân tộc chưa được quan tâm toàn diện, dẫn đến hiệu quả bảo tồn còn thấp. Khảo sát của một số nhà nghiên cứu tại các vùng người Lào, người Khơ Mú ở Pa Thơm, Mường Lói, Phu Luông (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), vùng người Mông (Phình Sáng, Tuần Giáo, Điện Biên); vùng người Thái ở Chiềng Mai (Mai Sơn, Sơn La) hay vùng người Giáy ở xã San Thàng (thành phố Lai Châu, tỉnh Lai 9 Nguyễn Thị Thu Hoài, (2020), tlđd. 10 Trần Hữu Sơn (2014), Bảo tồn văn hóa truyền thống vùng Tây Bắc: Tôn trọng tính đa dạng văn hóa, Tạp chí Văn hóa số 7/2014. BẢO ĐẢM QUYỀN VĂN HÓA CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ:... 94 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021 Châu) cho thấy chính người dân cũng không nắm được lịch sử tộc người, thực hành được văn hóa tộc người truyền thống như trước11. Ba là, người dân chưa thực sự được hưởng lợi từ các quyền văn hóa của dân tộc mình, thiếu sự hỗ trợ từ nhiều phía cũng như sự nỗ lực của bản thân cộng đồng. Một số dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc còn đang rất thiệt thòi do chưa có sự tham gia, hỗ trợ từ các nhà quản lý, các chuyên gia, các chủ dự án và cộng đồng. Bản thân người dân chưa nhìn thấy những lợi ích từ việc sử dụng văn hóa như một công cụ phát triển, nên thường thiệt thòi trong các dự án, khiến bản sắc văn hóa ngày càng mai một. Những nhận thức của người DTTS, nhất là lớp trẻ về văn hóa của dân tộc mình, giá trị của văn hóa tộc người trong phát triển kinh tế - xã hội chưa toàn diện. 2.4. Một số giải pháp Những thực trạng nêu trên đặt ra yêu cầu về những giải pháp mang tính đồng bộ, đó là: - Cộng đồng các DTTS cần giáo dục tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cho các thế hệ sau. Đưa tiếng dân tộc thiểu số vào chương trình giáo dục của nhiều địa phương có đông người DTTS sinh sống. - Chấp nhận đa dạng văn hóa nhưng cần có phương thức bảo tồn ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc mình trong dòng chảy chung của sự phát triển, giao lưu văn hóa thế giới. - Bảo vệ môi trường văn hóa của các DTTS vùng Tây Bắc: Người Tây Bắc có câu: “Thái ăn theo nước, Xá ăn theo lửa và Mông ăn theo sương mù”, câu nói này đã thể hiện nguồn gốc nảy sinh văn hóa tộc người từ chính môi trường tự nhiên mà họ sinh sống. Để lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, rất cần có một không gian sinh thái tương đồng cho người dân sinh hoạt, thực hành tri thức bản địa. - Kết hợp mô hình bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống với các mô hình phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở vùng DTTS Tây Bắc, cùng với sự liên kết các tỉnh khu vực Tây Bắc trong một khối phát triển chung. - Lãnh đạo các địa phương cũng cần học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, xây dựng các chương trình văn hóa tránh sự trùng lặp, tạo thành bản sắc riêng của từng vùng, từng dân tộc. Tóm lại, qua nghiên cứu thực tế một số 11 Nguyễn Thị Thu Hoài, (2020), tlđd tỉnh vùng Tây Bắc, tác giả nhận thấy việc bảo đảm quyền văn hóa của các DTTS đã có những kết quả đáng ghi nhận. Thông qua việc bảo tồn, xây dựng lại nhiều lễ hội văn hóa, sưu tầm và nghiên cứu luật tục; nghiên cứu vận dụng các phong tục, tập quán, luật tục tiến bộ vào đời sống, phát huy vản sắc văn hóa lồng ghép với du lịch góp phần phát triển kinh tế các địa phương đã làm thay đổi được phần nào đời sống, xã hội của người dân – những chủ thể văn hóa. Tuy nhiên, cũng còn không ít những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền văn hóa của người DTTS dẫn tới quyền văn hóa của nhiều DTTS chưa được bình đẳng, chưa phát triển hài hòa và thực sự mang lại sức mạnh nội sinh cho sự phát triển của địa phương. Trong chiến lược phát triển vùng Tây Bắc cũng như các địa phương trong thời gian tới, rất cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của các DTTS vùng Tây Bắc./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Song Hà (2016), Đảm bảo quyền cơ bản của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 4 (101), 2016. 2. Phạm Tuấn Khải (2010), Quyền văn hóa – Chế định pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Chính phủ. 3. Nguyễn Đăng Dung (2015), Quyền con người và việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11(291), tháng 6/2015 4. Nguyễn Thị Hồng Yến, Mạc Thị Hoài Thương (2019), Bảo đảm quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số tại Việt Nam – thực trạng và kiến nghị, Tạp chí Ng- hiên cứu Lập pháp số 20 (396), tháng 10/2019. 5. Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR). 6. Công ước về các Quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 (ICESCR). 7. Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người năm 1948 (UDHR). 8. Tuyên ngôn của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 2007 về quyền của các dân tộc bản địa. 9. Tô Ngọc Thanh (2008), Giữ gìn và phát triển di sản văn hóa của các dân tộc Tây Bắc, Báo Nhân dân điện tử số 9/2008. 10. Trần Hữu Sơn (2014), Bảo tồn văn hóa truyền thống vùng Tây Bắc: Tôn trọng tính đa dạng văn hóa, Tạp chí Văn hóa số 7/2014. 11. Nguyễn Thị Thu Hoài, (2020), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa tộc người thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị số 4/2020.
File đính kèm:
- bao_dam_quyen_van_hoa_cua_cac_dan_toc_thieu_so_thuc_tien_mot.pdf