Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số

Trong nền quản trị mở, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo - chủ thể trung

tâm trong việc kết nối, phối hợp, hợp tác giữa khu vực công và các

tác nhân khác ngoài khu vực công. Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh

sự tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số (e-participation),

thể hiện qua quá trình ra quyết định, quá trình tham vấn và quản lý

thông tin - dữ liệu được nâng tầm về kỹ thuật trên nền tảng kỹ thuật

số, và được nâng tầm về thể chế dựa vào sự minh bạch và hợp tác. Từ

bài học kinh nghiệm của nhiều quốc gia, có thể thấy các hình thức

e-participation ngày càng đa dạng và ngày càng trở nên phổ biến. Sự

tham gia trên nền tảng kỹ thuật số được thực hiện hiệu quả trên diện

rộng sẽ là đột phá trong việc nâng cao hiệu quả quản trị và trách nhiệm

của Nhà nước. Ở Việt Nam, sự tham gia trên nền tảng kỹ thuật số chỉ

mới phát triển ở việc công khai và vận hành một số thủ tục hành chính

trên môi trường internet, và cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa nhằm xây

dựng thành công Chính phủ điện tử.

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số trang 1

Trang 1

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số trang 2

Trang 2

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số trang 3

Trang 3

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số trang 4

Trang 4

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số trang 5

Trang 5

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số trang 6

Trang 6

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3740
Bạn đang xem tài liệu "Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số

Bảo đảm quyền tham gia của công dân trên nền tảng kỹ thuật số
 more with more,6 tác giả 
Jeremy Millard đã phân tích và đề xuất các 
hệ thống quản trị mở - trong đó chủ thể trung 
tâm là Nhà nước sẽ đóng vai trò chủ đạo 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
 17
trong việc kết nối, phối hợp, hợp tác giữa khu 
vực công và các tác nhân khác ngoài khu vực 
công. Theo Millard, mặc dù khu vực công trên 
nguyên tắc có thể tự tạo lập ra giá trị công, giá 
trị công này sẽ còn lớn hơn rất nhiều nếu Nhà 
nước hợp tác với các chủ thể khác ngoài khu 
vực công. Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo 
nhưng không còn độc quyền trong quá trình 
này7. Hợp tác nhiều hơn với các tác nhân 
khác ngoài khu vực công là chiến lược khôn 
ngoan của Nhà nước nhằm tạo ra nhiều giá trị 
hơn - như Millard mô tả “làm được nhiều hơn 
với nhiều hoạt động hơn”.
Mặc dù xu thế hợp tác công - tư ngày 
càng được đề cao, Jeremy Millard cũng lưu 
ý Nhà nước vẫn là trọng tâm. Nhà nước vẫn 
phải đảm trách những hoạt động mà khu vực 
tư không thể làm được. Nhà nước vẫn phải 
đảm bảo chất lượng thể chế và khung luật lệ - 
làm “phần mềm” để “phần cứng” (các chủ 
thể, tác nhân nêu trên) có thể hoạt động tốt. 
Nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm về chất 
lượng dịch vụ công và hiệu quả hoạt động 
của mình. Là chủ thể duy nhất chịu trách 
nhiệm trước toàn xã hội, Nhà nước vẫn phải 
đảm bảo xây dựng các giá trị công bền vững 
và cân bằng - qua đó, lợi ích của các nhóm 
trong xã hội được bảo đảm “công bằng” và 
“cân đối” một cách ổn định, lâu dài8.
Gần đây, Báo cáo Phát triển Thế giới 
năm 2017 với chủ đề “Quản trị và pháp 
luật”9 cũng tiếp cận vấn đề quản trị theo 
hướng quản trị mở nêu trên. Theo đó, quản 
7. Jeremy Millard, Open governance systems: Doing more with more, Government Information Quarterly 
(2015),  p. 8.
8. Jeremy Millard, Open governance systems: Doing more with more, Government Information Quarterly 
(2015), p.10.
9. World Bank, World Development Report 2017: Governance and the Law, 2017 (
en/publication/wdr2017).
10. World Bank, World Development Report 2017: Governance and the Law, 2017, p. 3.
11. World Bank, World Development Report 2017: Governance and the Law, 2017, p. 3.
12. United Nations, United Nations E-Government Survey 2016: E-Government in Support of Sustainable 
Development, Sales No. E.16.II.H.2 (New York, 2016), available for download at https://publicadministration.
un.org/en/research/un-e-governmentsurveys, p.116.
trị được định nghĩa là quá trình mà qua 
đó, Nhà nước và các nhân tố phi nhà nước 
tương tác nhằm xây dựng và thực thi chính 
sách trong khuôn khổ một hệ thống những 
quy tắc chính thức và phi chính thức vốn 
định hình quyền lực và cũng được định 
hình bởi quyền lực10. Khái niệm này được 
quan niệm và áp dụng rất rộng khi quản trị 
xuất hiện ở nhiều cấp độ, từ tổ chức quốc 
tế tới thể chế quốc gia, chính quyền địa 
phương, cộng đồng và doanh nghiệp. Các 
nhân tố này tác động qua lại với những lợi 
ích đan xen, tạo nên một hệ thống tương tác 
phức tạp11. 
Vấn đề STGKTS cũng nằm trong xu 
hướng quản trị hiện đại nêu trên. Có thể 
hiểu STGKTS là sự giao thoa của bốn yếu 
tố: (1) STGKTS (E-participation) đòi hỏi 
một môi trường Chính phủ điện tử được xây 
dựng (E-government); (2) STGKTS đòi hỏi 
sự minh bạch; (3) STGKTS đòi hỏi sự hợp 
tác, phối hợp giữa khu vực công và khu vực 
tư (inclusion); (4) STGKTS đòi hỏi sự nâng 
tầm của chính sự tham gia theo cách hiểu 
truyền thống. Theo đó, STGKTS thể hiện 
qua việc các lĩnh vực truyền thống của nó 
(quá trình ra quyết định, quá trình tham vấn, 
và quản lý thông tin - dữ liệu) được nâng tầm 
về kỹ thuật trên nền tảng kỹ thuật số (Chính 
phủ điện tử) và nâng tầm về thể chế dựa vào 
sự minh bạch và hợp tác12.
- Sự tham gia trên nền tảng kỹ thuật số 
cần thúc đẩy sự phối hợp, hỗ trợ và hợp tác 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
18 
giữa khu vực nhà nước và khu vực tư trong 
cung ứng dịch vụ công
Thực tiễn ở một số quốc gia cho thấy, 
nhiều chính sách công thất bại vì các lý do: 
thiếu cam kết chính trị mạnh mẽ của giới 
chính khách, thiếu sự hợp tác, phối hợp, 
tương tác hiệu quả giữa các thiết chế nhà 
nước với nhau và giữa các thiết chế nhà nước 
với các thiết chế phi nhà nước. Vì vậy, Báo 
cáo Phát triển Thế giới năm 2017 dành hẳn 
một chương bàn về giải pháp thúc đẩy sự 
thương lượng và thích nghi trong giới tinh 
hoa của một quốc gia - qua đó, khuyến khích 
họ tham gia vào tiến trình cải cách một cách 
tích cực, thực chất và đáng tin cậy. 
Những lợi ích của dịch vụ công mở giúp 
nâng cao minh bạch, trách nhiệm giải trình 
và hiệu quả phòng, chống tham nhũng. Trong 
bối cảnh quản trị mở, việc cung ứng dịch vụ 
công cũng mang tính “mở” - tức tăng cường 
sự tham gia của người dân và trách nhiệm 
giải trình của Nhà nước cũng như tổ chức 
cung ứng dịch vụ. Rõ ràng cách cải cách dịch 
vụ công mở sẽ trực tiếp đem lại lợi ích cho 
người dân và làm nâng cao chất lượng cuộc 
sống của họ. 
Sự tham gia của tư nhân vào tạo lập, 
xây dựng, cung ứng dịch vụ công ngày càng 
được chấp nhận nhiều hơn từ cả khu vực 
công và khu vực tư. Các tổ chức này vừa 
cạnh tranh vừa hợp tác. Tuy nhiên, các mối 
quan ngại về tính bình đẳng, minh bạch, 
trách nhiệm giải trình và phòng, chống 
tham nhũng tỷ lệ thuận với sự tham gia này. 
Nhằm đảm bảo công bằng và bình đẳng 
trong dịch vụ công, Nhà nước cần lưu ý 
giải quyết tốt các mối quan hệ sau: (i) Công 
bằng, bình đẳng giữa các tổ chức thuộc khu 
vực công với nhau; (ii) Công bằng, bình 
đẳng giữa các tổ chức thuộc khu vực công 
13. World Bank, World Development Report 2017: Governance and the Law, 2017, p. 97.
14. United Nations, United Nations E-Government Survey 2016: E-Government in Support of Sustainable 
Development, Sales No. E.16.II.H.2 (New York, 2016), available for download at https://publicadministration.
un.org/en/research/un-e-governmentsurveys, p. 116.
với các tổ chức thuộc khu vực tư; (iii) Công 
bằng, bình đẳng giữa các tổ chức thuộc khu 
vực tư trong cung ứng dịch vụ công; (iv) 
Công bằng, bình đẳng cho người tiếp cận 
dịch vụ công của một tổ chức.
- Sự tham gia trên nền tảng kỹ thuật 
số là đột phá trong việc nâng cao hiệu quả 
quản trị và trách nhiệm của Nhà nước
Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2017 
gợi ý một giải pháp nhằm đạt được pháp 
luật hiệu quả là tạo ra môi trường, diễn 
đàn, cơ hội để các nhóm xã hội (đặc biệt 
các nhân tố ít được đại diện nói lên tiếng 
nói) thực hiện phản biện, thảo luận những 
chính sách của chính quyền13. Mới gần đây, 
Báo cáo của Liên hợp quốc về Chính phủ 
điện tử đã phân tích khá lý thú về các hình 
thức STGKTS theo mức độ chính trị hóa và 
mức độ tham gia. Báo cáo đã mô tả về các 
hình thức tham gia trên nền tảng kỹ thuật số 
(E-participation) theo mức độ chính trị hóa 
và mức độ tham gia.14. Qua đó, có thể thấy 
ba lĩnh vực hoạt động của Nhà nước được 
xếp theo mức độ chính trị hóa từ thấp đến 
cao là: (1) Cung ứng dịch vụ công; (2) Xây 
dựng chính sách; (3) Thảo luận chính trị. 
Ngoài ra, có thể sắp xếp các mức độ tham 
gia từ thấp đến cao là: (1) Công khai thông 
tin; (2) Tham vấn, góp ý; (3) Hợp tác; (4) 
Trao quyền. Từ sự biến thiên của tính chính 
trị hóa và sự tham gia, chúng ta thấy một 
loạt các hình thức tham gia trên nền tảng kỹ 
thuật số thời nay. 
Cũng trên triết lý đó, Báo cáo Việt Nam 
2035 lập luận “các tổ chức phi chính phủ, 
bao gồm cả các tổ chức xã hội, nghề nghiệp 
và tôn giáo sẽ tham gia tích cực hơn trong 
đời sống cộng đồng, bao gồm cả việc tham 
gia giám sát kết quả hoạt động của Nhà nước 
và thực thi vai trò là đối tác của các cơ quan 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
 19
nhà nước khi triển khai các hoạt động hoặc 
chương trình vì lợi ích chung”15. Sự tham gia 
giám sát của các tổ chức xã hội và người dân 
đối với việc xây dựng và thực thi chính sách, 
pháp luật của Nhà nước là thiết yếu nhằm 
tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình 
của Nhà nước. Theo đó, mục tiêu là đến năm 
2035, “Nhà nước Việt Nam sẽ có một hệ 
thống vận hành hiệu quả cơ chế kiểm soát và 
cân bằng giữa các nhánh quyền lực nhà nước 
và tăng cường năng lực của người dân trong 
việc quy trách nhiệm đối với Nhà nước”16.
3. Bảo đảm quyền tham gia trên nền tảng 
kỹ thuật số ở Việt Nam
- Xây dựng chính sách về sự tham gia 
trên nền tảng kỹ thuật số
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 
24/05/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược 
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật 
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 
năm 2020 (Nghị quyết số 48) đã bàn về một 
số nội dung liên quan đến quyền tham gia 
quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo 
luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về 
các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước 
của công dân. Năm 2016, tổng kết việc thực 
hiện Nghị quyết số 48, Bộ Chính trị tiếp tục 
khẳng định “mở rộng dân chủ trực tiếp, tạo 
điều kiện để nhân dân tham gia vào công 
việc của Nhà nước”17. 
Chính sách về sự tham gia trên nền 
tảng kỹ thuật số thường được lồng ghép vào 
các chính sách về chính phủ điện tử, chính 
quyền điện tử và chuyển đổi số. Năm 2014, 
15. Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, 
công bằng và dân chủ, 2016, tr. 109.
16. Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, 
công bằng và dân chủ, 2016, tr. 118.
17. Kết luận 01-KL/TW ngày 04 tháng 4 năm 2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 
số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam 
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
18. Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng, Chính phủ điện tử là xu hướng tất yếu, đẩy lùi nạn tham 
nhũng (Bài trên Báo điện tử Vietnamnet: 
huong-tat-yeu-day-lui-nan-tham-nhung-469020.html).
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-
NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển 
công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát 
triển bền vững và hội nhập quốc tế (Nghị 
quyết số 36). Nghị quyết số 36 đưa ra chính 
sách “Ứng dụng, phát triển công nghệ thông 
tin trong tất cả các lĩnh vực, song có trọng 
tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ 
thông tin trong quản lý hành chính, cung cấp 
dịch vụ công, trước hết là trong lĩnh vực liên 
quan tới doanh nghiệp, người dân như giáo 
dục, y tế, giao thông, nông nghiệp”.
Năm 2018, Chính phủ tiếp tục đưa ra 5 
nhiệm vụ ưu tiên để xây dựng Chính phủ điện 
tử đến 2020: (1) Đẩy nhanh việc xây dựng, 
hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, 
toàn diện cho việc triển khai, xây dựng phát 
triển Chính phủ điện tử; (2) Hoàn thành các cơ 
sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng; 
(3) Thiết lập các hệ thống ứng dụng phục vụ 
người dân, doanh nghiệp và phục vụ quản lý 
điều hành của Chính phủ; (4) Rà soát, sắp xếp 
lại và huy động mọi nguồn lực cả về tài chính 
và con người; (5) Phát huy vai trò người đứng 
đầu, nâng cao hiệu quả thực thi và trách nhiệm 
giải trình18.
Về cơ bản, pháp luật Việt Nam hiện nay 
(Hiến pháp và một số văn bản luật) đã ghi 
nhận và quy định khá đầy đủ các khía cạnh của 
quyền tham gia, giám sát của nhân dân, của 
công dân. Tuy nhiên, các quy định hiện hành 
vẫn còn một số hạn chế. Chính sách về sự tham 
gia trên nền tảng kỹ thuật số còn chưa rõ nét 
trong các văn kiện của Đảng cũng như văn bản 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
20 
pháp luật của Nhà nước. Việc thực hiện các 
quyền hiến định liên quan mật thiết đến phạm 
trù quyền tham gia (quyền tự do ngôn luận, 
tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền 
tự do hội họp, quyền biểu tình, quyền bầu cử, 
ứng cử, quyền trưng cầu dân ý, quyền khiếu 
nại, tố cáo) còn nhiều trở ngại, vướng mắc.
- Bảo đảm sự tham gia trên nền 
tảng kỹ thuật số khi xây dựng Chính phủ 
điện tử
Có thể thấy các hình thức STGKTS 
ngày càng đa dạng và phổ biến, từ bài 
học kinh nghiệm của nhiều quốc gia. Nếu 
thực hiện được đa phần các hình thức vừa 
nêu một cách hiệu quả, STGKTS sẽ là đột 
phá trong việc nâng cao hiệu quả quản trị 
và trách nhiệm của Nhà nước. Tuy nhiên, 
ở Việt Nam STGKTS chỉ mới phát triển 
manh nha ở việc công khai và vận hành 
một số thủ tục hành chính trên môi trường 
Internet (dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4), 
mặc dù xây dựng Chính phủ điện tử là chủ 
trương cả thập kỷ nay. Chủ trương xây dựng 
Chính phủ điện tử thực sự đòi hỏi sự tham 
gia trên nền tảng kỹ thuật số được thực hiện 
một cách đa dạng và thẩm thấu vào các hoạt 
động của Nhà nước.
Với chủ trương đẩy mạnh xây dựng 
Chính phủ điện tử ở Việt Nam, có thể kỳ 
vọng STGKTS sẽ thúc đẩy sự phối hợp, hỗ 
trợ và hợp tác giữa khu vực nhà nước và 
khu vực tư trong cung ứng dịch vụ công. 
Hiện nay, chúng ta có thể thấy hiệu quả của 
STGKTS rõ rệt nhất trong thực hiện dịch vụ 
công trực tuyến (thuộc nhóm cải cách dịch 
vụ hành chính công). Những cải cách mạnh 
mẽ tiếp theo sẽ mở rộng tới cách nhóm dịch 
vụ công khác (dịch vụ sự nghiệp công, dịch 
vụ công ích). Đây là một xu thế tất yếu trong 
bối cảnh trong và sau đại dịch Covid-19 
Tài liệu tham khảo
1. UN Department of Economic and Social 
Affairs, United Nations E-Government Survey 
2020: Digital Government in the Decade of 
Action for Sustainable Development, New York, 
2020, publicadministration.un.org.
2. United Nations, United Nations 
E-Government Survey 2016: E-Government in 
Support of Sustainable Development, Sales No. 
E.16.II.H.2 (New York, 2016), available for 
download at https://publicadministration.un.org/
en/research/un-e-governmentsurveys.
3. David Le Blanc, “E-participation: a 
quick overview of recent qualitative trends”, 
DESA Working Paper No. 163, ST/ESA/2020/
DWP/163 (January 2020), p. 4, available at 
https://www.un.org/esa/desa/papers/2020/
wp163_2020.pdf, citing Øystein Sæbø, Jeremy 
Rose and Leif Skiftenes Flak, “The shape of 
eparticipation: characterizing an emerging 
research area”, Government Information 
Quarterly, vol. 25, No. 3 (July 2008)
4. Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính 
trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện 
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định 
hướng đến năm 2020
5. Kết luận 01-KL/TW ngày 04 tháng 04 
năm 2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực 
hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị 
khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện 
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định 
hướng đến năm 2020.
6. Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến 
Dũng, Chính phủ điện tử là xu hướng tất yếu, 
đẩy lùi nạn tham nhũng (Bài trên Báo điện tử 
Vietnamnet: 
chinh-tri/chinh-phu-dien-tu-la-xu-huong-tat-
yeu-day-lui-nan-tham-nhung469020.html).
7. Jeremy Millard, Open governance 
systems: Doing more with more, Government 
Information Quarterly (2015), 
org/10.1016/j.giq.2015.08.003.
8. World Bank, World Development Report 
2017: Governance and the Law, 2017 (http://
www.worldbank.org/en/publication/wdr2017).
9. Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và 
Đầu tư, Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh 
vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, 2016./.

File đính kèm:

  • pdfbao_dam_quyen_tham_gia_cua_cong_dan_tren_nen_tang_ky_thuat_s.pdf