Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) có sức tác động mạnh, nhanh nhất tới xã hội. Mọi quyết sách xuất phát từ các CQHCNN có tác động trực diện và tác động ngay tới đời sống xã hội; trong hoạt động của CQHCNN luôn tiềm ẩn các nguy cơ xâm phạm tới quyền công dân (QCD). Việc bảo đảm thực hiện QCD những năm qua ở Việt Nam còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu và giải quyết, cả về phương diện cơ chế, pháp luật đến hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước nói chung và của CQHCNN nói riêng. Nghiên cứu này đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm, giải pháp về bảo đảm QCD trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam hiện nay
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
g, tính chịu trách nhiệm của Nhà nước một cách toàn diện. Để bảo đảm tính chính đáng, tính chịu trách nhiệm ấy, Nhà nước phải kiến tạo một nền tảng pháp lý để bảo đảm QCD trong hoạt động của các CQHCNN trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể khi các biện pháp, trình tự pháp lý thông thường không thể giải quyết. Đây cũng là căn cứ pháp lý cuối cùng để định biên giữa khả năng tác động, can thiệp của Nhà nước với quyền tự chủ (tự do, độc lập) của công dân. Hai là, thống nhất nhận thức về quyền cơ bản của công dân: trong nhận thức về quyền cơ bản, vẫn còn một số vấn đề cần làm rõ quyền cơ bản của công dân là những QCD được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước (Hiến pháp), được ghi nhận và bảo vệ bằng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, mọi trường hợp can thiệp quyền đều phải dựa trên cơ sở Hiến pháp. Bên cạnh đó, quyền cơ bản của công dân được phân biệt với các quyền khác thông qua các tiêu chí chính sau: chủ thể hưởng quyền cơ bản, nội dung hưởng quyền cơ bản, các căn cứ Hiến pháp cho các trường hợp/giới hạn can thiệp của Nhà nước vào quyền cơ bản. Ba là, tiếp thu và hoàn thiện lý luận về vai trò, chức năng của Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền, trong thời kỳ mới; về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong xã hội hiện đại: việc xây dựng mối quan hệ hợp tác tích cực giữa Nhà nước và công dân phải dựa trên sự đồng thuận của toàn xã hội. Tức là sự thay đổi tích cực không chỉ đòi hỏi ở một phía Nhà nước mà còn được đặt ra đối với người dân. Nhóm giải pháp tăng cường năng lực sử dụng quyền của người dân Một là, nâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho người dân: việc này cần được tiến hành đồng bộ và thực hiện tốt các biện pháp như: đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, giải thích pháp luật; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý, cán bộ hành chính nhà nước; đưa việc giảng dạy pháp luật vào các trường đào tạo cán bộ của Nhà nước, của các tổ chức xã hội; mở rộng công khai, dân chủ trong hoạt động của bộ máy nhà nước, thu hút nhân dân tham gia đông đảo vào việc xây dựng các dự án pháp luật. Hai là, xây dựng ý thức về vai trò tích cực, chủ động của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước: trong xã hội hiện đại, yêu cầu về tính chính đáng của Nhà nước là một tiêu chí cơ bản để bảo đảm sự vững bền của Nhà nước đó. Tính chính đáng đòi hỏi Nhà nước phải đáp ứng được các kỳ vọng và tiêu chuẩn của người dân đối với chính quyền của mình. Ngược lại, phía công dân cũng cần có thái độ hợp tác tích cực trong ý thức về trách 2763(4) 4.2021 Khoa học Xã hội và Nhân văn nhiệm và nghĩa vụ công dân. Đồng thời, tính chính đáng cũng đòi hỏi Nhà nước phải bảo đảm việc thực thi và bảo vệ các quyền hợp pháp của công dân một cách chủ động, hữu hiệu nhất. Một yếu tố quan trọng để giúp người dân có thái độ tích cực trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, đó là việc xây dựng, nâng cao ý thức công dân trong mỗi cá nhân. Việc xây dựng và nâng cao ý thức công dân ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để ý thức công dân có được nền tảng vững chắc thì việc tạo lập một cơ chế đảm bảo quyền dân chủ và sự bình đẳng trước pháp luật cho các thành viên trong xã hội là yêu cầu tất yếu. Ba là, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân: để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, một trong những tiêu chí hàng đầu là phải bảo đảm cho người dân được chủ động tiếp cận và được đáp ứng các yêu cầu chính đáng về thông tin. Đồng thời, nội dung này còn đòi hỏi sự chủ động minh bạch, công khai hóa các thông tin từ phía các cơ quan công quyền, trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc phải được giữ bí mật. Nhóm giải pháp về xây dựng và hoàn thiện thể chế Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm QCN, quyền tự do, dân chủ của công dân: đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, lĩnh vực QCN nói riêng, có thể thấy hệ thống pháp luật nước ta trong hơn hai thập kỷ qua đã có sự phát triển mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, còn tồn tại một số hạn chế trong hệ thống pháp luật như: khá cồng kềnh; thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi; rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, dẫn đến chậm trễ thi hành, chờ văn bản hướng dẫn của các cấp khác nhau, làm nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa văn bản hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành; tính minh bạch, hệ thống của hệ thống pháp luật còn hạn chế; xây dựng pháp luật chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do đó, thiếu tính dự báo và tính khả thi [3]. Hai là, hoàn thiện thủ tục thực hiện bảo hộ pháp lý cho công dân theo hướng đảm bảo tính công khai, minh bạch và kịp thời, trong đó trọng tâm là hoàn thiện pháp luật về tố quyền: để đảm bảo chất lượng và hiệu quả thực hiện việc bảo hộ pháp lý cho công dân thì yêu cầu hàng đầu là phải thiết lập một nền tảng pháp lý về trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động này một cách hợp lý, khoa học, công khai, minh bạch và kịp thời. Nhất là yêu cầu công khai minh bạch có ý nghĩa đảm bảo sự giám sát trực tiếp của công dân, các tổ chức liên quan đến hoạt động đó, góp phần hạn chế những biểu hiện thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ cũng như hạn chế những hoạt động vượt ra ngoài phạm vi pháp luật cho phép. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đã thu được những kết quả đáng khích lệ, như cơ chế “một cửa một dấu” trong hành chính hay chủ trương áp dụng thủ tục xét xử rút gọn cho một số vụ án. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, hoạt động bảo hộ pháp lý đối với công dân nói riêng, yêu cầu tiếp tục cải cách và hoàn thiện hệ thống thủ tục về bảo hộ pháp lý cho công dân vẫn mang tính thời sự cấp thiết. Ba là, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các thiết chế bảo hộ pháp lý đối với công dân: trong pháp luật về tổ chức và hoạt động bộ máy quyền lực nhà nước, cần bảo đảm nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hơn nữa cần xác định rõ phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ của các thiết chế có nhiệm vụ bảo đảm pháp lý cho công dân trong hoạt động của các CQHCNN hiện nay. Bên cạnh đó, thiết lập và nâng cao năng lực của các thiết chế đặc thù trong hệ thống các thiết chế bảo đảm pháp lý cho công dân trong hoạt động của các CQHCNN hiện có. Đồng thời hoàn thiện các thiết chế bảo hộ pháp lý cho công dân theo hướng đề cao tính độc lập về tổ chức và hoạt động của các thiết chế này. Xây dựng và vận hành các thiết chế cụ thể Một là, đề cao vai trò của hệ thống tòa án trong việc bảo hộ pháp lý cho công dân: trong trật tự nhà nước pháp quyền, tòa án là cơ quan có vai trò hàng đầu trong việc bảo vệ công lý. Về bảo đảm QCD trong hoạt động của các CQHCNN, hệ thống cơ quan tòa án có vai trò trung tâm, thực hiện vai trò giám sát đối với hoạt động của các thiết chế khác. Do đó, một trong những nội dung trọng tâm trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các cơ chế bảo đảm QCD trong hoạt động của các CQHCNN là phải kiện toàn hệ thống cơ quan tòa án, cả về tổ chức và hoạt động. Hai là, tiếp tục hoàn thiện và phát huy chức năng của các thiết chế bảo đảm đối với công dân đang vận hành: 1) Đối với thiết chế dân nguyện: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thiết chế này theo hướng chuyên nghiệp, khoa học và hiệu quả. Ủy ban dân nguyện hay Thanh tra Quốc hội (Ombudsman) là những gợi ý khá hữu ích cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thiết chế dân nguyện ở Việt Nam; 2) Đối với thiết chế TGPL: tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ thực hiện TGPL, thành lập các quỹ hỗ trợ TGPL để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của thiết chế này, nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân; 3) Đối với thiết chế BTNN: tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên trách về BTNN. Khắc phục tình trạng thiếu khách quan do việc tổ chức thẩm quyền giải quyết bồi thường theo mô hình phân tán theo hướng giao cho một cơ quan làm đầu mối tiếp nhận và thay mặt Nhà nước giải quyết bồi thường cho tổ chức, công dân bị thiệt hại. Ba là, thành lập các “Quỹ bảo hộ pháp lý cho công dân” và quy định trách nhiệm thực hiện của các thiết chế được giao nhiệm vụ quản lý, sử dụng các Quỹ này: trong những năm gần đây, ở nước ta đã hình thành phương thức bảo đảm pháp lý cho công dân dưới hình thức TGPL cho người nghèo. Có thể nhận thấy, đây là những hình thức hỗ trợ để nâng cao năng lực bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Tuy nhiên, những hình thức bảo hộ có tính chất trợ giúp này mới chỉ bước đầu hình thành và được thực hiện trong những phạm vi đối tượng hẹp - trong một số ít lĩnh vực và đối với một số đối tượng. Cần nghiên cứu, chuẩn bị và thiết lập hình thức bảo hộ này rộng hơn như đối với những người bị thất nghiệp, đối với nạn nhân của những hiểm 2863(4) 4.2021 Khoa học Xã hội và Nhân văn họa thiên nhiên - với tính chất là sự bảo hộ thuộc về trách nhiệm của Nhà nước chứ không phải chỉ là sự kêu gọi mang tính chất sự vụ như hiện nay. Bốn là, xây dựng và hoàn thiện các tổ chức xã hội dân sự: việc bảo đảm QCD trong hoạt động của các CQHCNN không thể không kể đến vai trò của các tổ chức xã hội dân sự. Do đó, cần tạo dựng cơ sở pháp lý vững chắc, tạo môi trường hoạt động và phát triển các tổ chức dân sự trong khuôn khổ pháp luật, theo đó: tạo cơ sở pháp lý để các cá nhân có thể tự do tham gia, thành lập, sinh hoạt trong các tổ chức xã hội dân sự; tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức tự quản hoạt động tuân thủ pháp luật, phát huy được vai trò của các tổ chức này trong quản lý xã hội, đồng thời, trong khuôn khổ pháp luật, các tổ chức xã hội phải đề cao vai trò của mình nhằm hỗ trợ công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội, vai trò là đại diện hợp pháp bảo vệ quyền, lợi ích cho các thành viên, hướng các thành viên của họ trong đời sống thường ngày biết tuân thủ pháp luật, các quy tắc đạo đức, xây dựng xã hội lành mạnh; cần sớm ban hành Luật về Hội nhằm bảo đảm việc sử dụng và thực thi quyền tự do lập hội của người dân một cách hiệu quả, thúc đẩy, tạo môi trường hoạt động và phản biện của các tổ chức thuộc xã hội dân sự, đồng thời thống nhất quản lý nhà nước về hội. Năm là, thiết lập cơ chế tài phán Hiến pháp: tài phán Hiến pháp là một hình thức bảo hiến. Tuy nhiên, khi nhắc đến tài phán Hiến pháp là muốn nhấn mạnh đến vai trò của tư pháp trong việc giám sát, bảo vệ việc tuân thủ Hiến pháp trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Bảo vệ Hiến pháp cũng là bảo vệ các QCN, quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Các QCD được ghi nhận trong Hiến pháp có thể bị xâm hại trực tiếp bởi những hành vi của các chủ thể trong xã hội, bao gồm các cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các chủ thể xã hội khác. Trong đó, sự vi phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp có thể tạo nên sự tước đoạt hoặc hạn chế một quyền cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp của tất cả các công dân trong một quốc gia. Hiện nay, Quốc hội vẫn là cơ quan giám sát tối cao đối với các hoạt động của các cơ quan nhà nước, đối với việc thi hành và tuân thủ Hiến pháp. Tức là ở nước ta chưa có một cơ chế để giám sát hiệu quả hoạt động của Quốc hội mà mới chỉ có chính Quốc hội giám sát hoạt động của mình. Cách thức vận hành này có thể tạo nên những nguy cơ vi hiến mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Do vậy, để bảo hộ QCD được ghi nhận trong Hiến pháp một cách hữu hiệu, cần phải có một cơ chế bảo hiến độc lập. Mặt khác, để bảo đảm tính chuyên trách, độc lập, đủ năng lực thực hiện vai trò bảo vệ Hiến pháp nói chung và bảo vệ chế độ pháp lý của công dân (là những quyền hiến định của công dân), chúng tôi kiến nghị việc thiết lập cơ chế bảo hiến với thiết chế là Tòa án Hiến pháp. Kiến nghị này xuất phát từ những ưu điểm đã được thừa nhận chung của Toà án Hiến pháp trong việc bảo đảm QCD trong hoạt động của các CQHCNN. Nhóm giải pháp hỗ trợ Một là, trang bị đầy đủ thông tin: việc này giúp cơ chế vận hành hiệu quả, nhịp nhàng, bảo đảm sự minh bạch, công khai và tính chính đáng của Nhà nước trong các hoạt động của mình, tiếp thu các ý kiến phản hồi từ dư luận xã hội, phản biện xã hội, cũng như nắm bắt được các thông tin liên quan đến hoạt động bảo hộ được nhanh chóng, hiệu quả, kịp thời, chính xác. Đối với chủ thể được bảo đảm (công dân), việc được tiếp cận đầy đủ thông tin chính là cách thức bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, giúp trang bị cho họ vũ khí căn bản nhưng hết sức mạnh mẽ để tự bảo vệ quyền của mình. Hai là, trang bị phương tiện làm việc hiện đại và đảm bảo tốt vấn đề kinh phí: trong thời đại kỹ thuật công nghệ cao như hiện nay, chúng ta không thể không chú ý đến việc trang bị đầy đủ những phương tiện làm việc hiện đại, chất lượng, đồng thời, phải bảo đảm tốt vấn đề kinh phí phục vụ cho hoạt động này. Có như vậy, chúng ta mới nâng cao chất lượng bảo đảm QCD trong hoạt động của các CQHCNN. Một nội dung đáng lưu ý về kinh phí là ngân sách cho hoạt động của tòa án. Cần có một cơ chế phân bổ ngân sách hợp lý nhằm tăng cường sự độc lập tư pháp. Các giải pháp cần hướng tới hạn chế sự phụ thuộc ngân sách của tòa án vào Chính phủ, bảo đảm chế độ lương của thẩm phán tương xứng với vai trò của tòa án (cơ quan bảo vệ công lý). Ba là, nâng cao năng lực nguồn nhân lực: nâng cao năng lực và trau dồi nhận thức, đạo đức của các cán bộ, nhân viên thuộc bộ máy công quyền, đặc biệt là nhóm cơ quan hành chính và tư pháp. Bên cạnh đó, cần nâng cao tính độc lập và tính chịu trách nhiệm (chính trị, pháp lý) trong các cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động bảo hộ pháp lý đối với công dân. Chỉ khi hoạt động tương đối độc lập, đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp, người có thẩm quyền thực hiện bảo hộ pháp lý đối với công dân mới thật sự công tâm, khách quan trong hoạt động của mình. Kết luận Nghiên cứu đã phân tích, đánh giá một cách khái quát và hệ thống về thực trạng pháp luật và thực tiễn vận hành cơ chế bảo đảm QCD trong hoạt động của CQHCNN ở Việt Nam, lý giải nguyên nhân dẫn đến những bất cập, hạn chế trong thực trạng bảo hộ pháp lý đối với công dân ở Việt Nam, đề xuất các giải pháp về nâng cao hoạt động bảo đảm QCD trong hoạt động của CQHCNN trong nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] su-phat-trien. [2] Phạm Hữu Nghị (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tổ chức và kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đề tài cấp bộ do Viện Nhà nước và Pháp luật chủ trì, tr121. [3] Hà Hùng Cường (2009), “Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 18(139+140), tr17-21.
File đính kèm:
- bao_dam_quyen_cong_dan_trong_hoat_dong_cua_cac_co_quan_hanh.pdf