Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa và người

tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng

cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của

vụ án. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đánh giá thực trạng và đề xuất

một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân

Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay trang 1

Trang 1

Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay trang 2

Trang 2

Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay trang 3

Trang 3

Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay trang 4

Trang 4

Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay trang 5

Trang 5

Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 2440
Bạn đang xem tài liệu "Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay

Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay
ình 
sự; về các biện pháp ngăn chặn trong tố 
tụng hình sự; về trình tự, thủ tục tiến hành 
phiên tòa; về khiếu nại tố cáo trong tố tụng 
hình sự...
Thực tiễn cho thấy, ở hầu hết các phiên 
tòa xét xử vụ án hình sự, HĐXX đã quan 
tâm và tạo điều kiện cho bị cáo trong việc 
trình bày các quan điểm, ý kiến của mình 
về các tình tiết của vụ án; cơ quan báo chí 
cũng được Chủ tọa phiên tòa tạo điều kiện 
để thông tin về các hoạt động tại phiên tòa 
kịp thời, bảo đảm phiên tòa diễn ra công 
khai với sự giam sát của nhân dân; quyền 
được bào chữa, quyền được công khai xét 
xử được tuân thủ. 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
28 Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
Việc tổ chức phiên tòa theo tinh thần 
cải cách tư pháp đã thể hiện sự trang 
nghiêm, bình đẳng giữa các bên, tạo tâm lý 
thuận lợi cho luật sư khi tranh tụng. Hàng 
năm, các bản án hình sự của Tòa án cấp 
sơ thẩm đã tuyên nhìn chung đều đảm bảo 
đúng pháp luật, bảo đảm tính khách quan, 
công bằng, bảo đảm các quyền của bị cáo, 
việc tranh tụng tại các phiên tòa được thực 
thi nghiêm túc... Tỷ lệ các bản án, quyết 
định bị hủy, sửa do lỗi của Tòa án cấp sơ 
thẩm giảm dần qua các năm (năm 2016 
là 1,3%; năm 2017 là 1,2%; năm 2018 là 
1,14%3; năm 2019 là 1,09%. Việc xét xử 
các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, 
đúng tội, đúng pháp luật4.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc 
bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo trong 
hoạt động xét xử vụ án hình sự của TAND 
còn hạn chế, bất cập sau:
Thứ nhất, về quy định của pháp luật: 
- Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã bổ 
sung nhiều quy định bảo đảm quyền bình 
đẳng của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự 
(Điều 9, Điều 26, Điều 42, Điều 257). Tuy 
nhiên, quyền năng của những người tiến 
hành tố tụng vẫn được coi trọng hơn người 
bào chữa (Điều 307, 309); thời gian nghị 
án của HĐXX chưa được quy định cụ thể 
(Điều 326); chưa bảo đảm quyền bình đẳng 
giữa bị cáo và các chủ thể khác (bị cáo có 
thể bị áp giải trong trường hợp cố ý vắng 
mặt, hoặc không đến làm việc theo yêu cầu 
của người có thẩm quyền tố tụng mà không 
vì lý do bất khả kháng hoặc không có trở 
ngại khách quan nào (điểm a khoản 3 Điều 
60; điểm a khoản 3 Điều 61; điểm a khoản 4 
Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015), trong khi 
các chủ thể khác như bị đơn dân sự, người 
3. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo tóm tắt công tác tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018 – 
nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, tr.2. 
4. https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-tin?dDocName=TAND090379.
có nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến 
nếu vắng mặt theo yêu cầu của người tiến 
hành tố tụng thì không chịu tác động của 
chế tài nào). 
- Việc thực hiện quyền tiếp cận dịch vụ 
pháp lý của bị cáo góp phần thực hiện quyền 
bình đẳng tại phiên tòa. Theo đó, BLTTHS 
năm 2015 quy định người bào chữa có 
nhiều quyền từ việc gặp gỡ người bị buộc 
tội (trong đó có bị cáo); có mặt trong hoạt 
động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng 
nói và hoạt động điều tra; xem biên bản về 
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, 
quyết định tố tụng liên quan đến người mà 
mình bào chữa (khoản 1 Điều 73). Tuy 
nhiên, những quy định trên đây chưa thực 
sự có ý nghĩa đối với người bào chữa và bị 
cáo. Bởi vì, khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 
2015 quy định: “Những gì có thật nhưng 
không được thu thập theo trình tự, thủ tục 
do Bộ luật này quy định thì không có giá trị 
pháp lý và không được dùng làm căn cứ để 
giải quyết vụ án”. 
- Pháp luật quy định luật sư của bên bị 
cáo có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ liên 
quan đến việc thực hiện quyền bào chữa 
nhưng việc tiếp nhận, kiểm tra và đánh giá 
tài liệu, chứng cứ lại do cơ quan tiến hành tố 
tụng quyết định (khoản 4 Điều 88 BLTTHS 
năm 2015). Điều này cho thấy, luật sư, 
người bào chữa cho bên bị cáo chưa thực sự 
bình đẳng với bên buộc tội.
- Theo quy định của BLTTHS năm 
2015, chỉ pháp nhân thương mại nào phạm 
tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ 
luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 
Trong khi đó, khái niệm pháp nhân rất rộng. 
Một tổ chức trở thành pháp nhân khi có các 
điều kiện được quy định tại Điều 74 của Bộ 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 29
luật Dân sự năm 2015. Như vậy, quy định 
của BLTTHS năm 2015 về trách nhiệm 
hình sự đối với pháp nhân thương mại so 
với pháp nhân phi thương mại cũng mới chỉ 
căn cứu vào mục đích “thương mại” để xử 
lý trách nhiệm hình sự của pháp nhân cũng 
chưa thỏa đáng.
- BLTTHS năm 2015 không quy định 
về biện pháp áp dụng trách nhiệm đối với 
những trường hợp KSV không thực hiện 
nghĩa vụ đối đáp tại phiên tòa để làm rõ sự 
thật khách quan của vụ án là chưa bảo đảm 
nguyên tắc bình đẳng trong xét xử vụ án 
hình sự.
- Khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 
2015 quy định “Việc hỏi cung bị can tại 
cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan 
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến 
hành một số hoạt động điều tra phải được 
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc 
hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi 
âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu 
cầu của bị can hoặc của cơ quan, người 
có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Tuy 
nhiên, phương tiện này vẫn do cơ quan tố 
tụng chủ trì và khi không có ống kính máy 
quay nữa thì cũng khó bảo đảm không có 
gì bất lợi cho người bị tạm giữ, điều tra 
(ví dụ, trong vụ án Hồ Duy Hải, tang vật 
được xem là hung khí giết người là con 
dao được mua về từ chợ theo mô tả tự thú 
của bị can - trong trường hợp này, việc ghi 
âm, ghi hình là không có ý nghĩa)5.
- Khoản 1 Điều 70 BLTTHS năm 2015 
quy định “Người phiên dịch, người dịch 
thuật là người có khả năng phiên dịch, 
dịch thuật được cơ quan có thẩm quyền 
tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường 
hợp người tham gia tố tụng không sử dụng 
được tiếng Việt, hoặc có tài liệu không thể 
hiện bằng tiếng Việt”. Tuy nhiên, thực tiễn 
5. 
áp dụng quy định này cho thấy, có những 
bị cáo sử dụng được tiếng Việt nhưng hạn 
chế hơn so với các chủ thể tham gia tố tụng 
khác. Nếu pháp luật không có hướng dẫn cụ 
thể hơn về mức độ “sử dụng tiếng Việt” của 
những người tham gia tố tụng để làm căn cứ 
cử người phiên dịch, dịch thuật thì không 
bảo đảm được quyền bình đẳng cho các chủ 
thể trong đó có quyền của bị cáo.
Thứ hai, về việc thực hiện trách nhiệm 
của các chủ thể tiến hành tố tụng:
- Khi xét hỏi, có trường hợp KSV còn 
có định kiến với bị cáo, coi họ đã là tội phạm, 
chưa quán triệt nguyên tắc suy đoán vô tội; 
có trường hợp KSV chưa tích cực, chủ động 
trong việc xét hỏi mà coi việc xét hỏi là 
nhiệm vụ chính của Chủ tọa phiên tòa. 
- Khi phát biểu ý kiến về phiên tòa, có 
trường hợp KSV không căn cứ vào kết quả 
xét hỏi mà căn cứ vào bản cáo trạng đã truy 
tố bị cáo, mặc dù kết quả xét hỏi tại phiên 
toà đã có nhiều nội dung không đúng với 
bản cáo trạng. 
- Ở một số vụ án, HĐXX chưa điều hành 
tốt quá trình tranh luận giữa các bên; chưa 
thực sự chú ý đến những tình tiết, chứng cứ 
mới của vụ án nên những mâu thuẫn trong 
chứng cứ và lời khai chưa được làm sáng tỏ. 
Mặc dù BLTTHS năm 2015 quy định khi xét 
xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (HTND) 
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng có 
trường hợp, Thẩm phán, HTND có tâm lý 
trông chờ vào Chủ tọa phiên tòa, không lắng 
nghe việc tranh luận giữa bên buộc tội và bên 
gỡ tội. Các tình tiết quan trọng và chứng cứ 
gỡ tội mà người bào chữa đưa ra thường ít 
được HĐXX quan tâm xem xét, chấp nhận 
và ít được đề cập trong bản án. Có trường hợp 
KSV vì chưa chuẩn bị tốt việc tranh luận tại 
phiên tòa, không dự đoán được một số tình 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
30 Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
huống xảy ra nên khi bị cáo và người bào 
chữa có những chứng cứ mới thì KSV trở nên 
bị động và lúng túng, né tránh những vấn đề 
mà bên gỡ tội nêu ra trái với quan điểm của 
KSV, hoặc trả lời không đi thẳng vào trọng 
tâm của vấn đề đang tranh luận. 
- Điều 257 BLTTHS năm 2015 quy định 
“Luật sư có vị trí ngồi ngang bằng với KSV 
tại phiên tòa”, nhưng trên thực tế, ở nhiều 
phiên tòa xét xử vụ án hình sự, ý kiến của luật 
sư phần nhiều vẫn chưa có ý nghĩa ràng buộc 
đối với HĐXX6. Nhiều trường hợp HĐXX 
ưu tiên hơn cho KSV, hạn chế quyền tranh 
luận của người bào chữa bảo vệ cho bị cáo. 
Quyền bào chữa của bị cáo là phương tiện, 
công cụ để bị cáo bảo vệ quyền của mình, 
nhưng trên thực tế vẫn chưa thực sự được 
coi trọng. Trên thực tế, có nhiều trường hợp 
“luật sư chậm nhận được thông báo đăng ký 
bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp 
mặc dù luật đã quy định khá chi tiết về thời 
hạn giải quyết thủ tục đăng ký bào chữa tại 
khoản 4 Điều 78 BLTTHS năm 2015. Việc 
thông báo này thường bị quá hạn với nhiều 
lý do khác nhau từ phía cơ quan tiến hành tố 
tụng, góp phần làm khó luật sư”7.
- Khi nghị án và tuyên án: có vụ án 
HĐXX cấp sơ thẩm không xem xét áp dụng 
tình tiết giảm nhẹ khung hình phạt cho bị 
cáo, áp dụng tội danh sai, hoặc có trường hợp 
đủ căn cứ tuyên bị cáo vô tội, nhưng Tòa án 
không tuyên vô tội mà lại trả hồ sơ điều tra 
6. Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định về phòng xử án. Thông tư này đã góp phần bảo đảm nguyên 
tắc tranh tụng theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 cũng như nguyên tắc bảo đảm sự 
bình đẳng của các bên trong tranh tụng, qua đó góp phần bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo tại phiên tòa.
7. Lê Minh Đức (2020), Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự ở 
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.109.
8. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2015), Báo cáo kết quả giám sát về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về 
hình sự, TTHS và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai trong hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật” 
của Quốc hội khóa XIII, tr.14.
9. Võ Quốc Tuấn, Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án 
nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 
Hà Nội, 2017, tr.97.
bổ sung để đình chỉ điều tra, ảnh hưởng đến 
quyền lợi của người bị oan; có vụ án HĐXX 
cấp sơ thẩm đã quá nhấn mạnh đến mức độ và 
tính nhất nguy hiểm của hành vi phạm tội, do 
đó tuyên phạt bị cáo với mức án quá nghiêm 
khắc không bảo đảm quyền bình đẳng của 
bị cáo; một số trường hợp chưa thực hiện tốt 
các hoạt động trong phần nghị án và tuyên 
án; có vụ án “biên bản phiên tòa, biên bản 
nghị án còn sơ sài, hình thức, không đúng 
với phần quyết định của bản án, khi nghị án 
không thảo luận và biểu quyết về điều khoản 
áp dụng xử phạt bị cáo, án phí, trách nhiệm 
dân sự, xử lý vật chứng”8. Trên thực tế, “một 
số vụ án, hoạt động nghị án của HĐXX bị 
can thiệp, làm trái quy định của BLTTHS, 
ảnh hưởng, xâm hại đến quyền, lợi ích của bị 
cáo và các bên có liên quan. Có trường hợp 
chánh án yêu cầu buộc Thẩm phán phải dừng 
việc tuyên án, thực chất là đã can thiệp đến 
hoạt động của HĐXX”9.
3.	Một	số	giải	pháp	bảo	đảm	quyền	bình	
đẳng	của	bị	cáo	trong	xét	xử	sơ	thẩm	vụ	
án	hình	sự	của	Tòa	án	nhân	dân	ở	Việt	
Nam	hiện	nay
Từ thực trạng nêu trên, tác giả cho 
rằng, để bảo đảm quyền bình đẳng của bị 
cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của 
Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay cần 
thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về 
thực hiện nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu 
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021 31
tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố 
tụng của những người tham gia tố tụng khác 
như bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên 
quan, người chứng kiến trong BLTTHS năm 
2015. Cụ thể, cần bổ sung điểm a khoản 3 
của các Điều 64, Điều 65, Điều 67 BLTTHS 
năm 2015 với nội dung “Trường hợp cố ý 
vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng 
hoặc không do trở ngại khách quan và việc 
vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải 
quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều 
tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải”. 
Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản 
hướng dẫn thực hiện quy định về quyền 
được sử dụng tiếng nói và chữ viết trong 
TTHS để đảm bảo quyền bình đẳng của bị 
cáo tại phiên tòa. Cụ thể, cần có hướng dẫn 
rõ hơn về mức độ sử dụng tiếng Việt của 
những người tham gia phiên tòa tại Điều 23, 
Điều 70, Điều 263 BLTTHS năm 2015.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn 
bảo đảm thực hiện thống nhất một số quy 
định của BLTTHS năm 2015 như: quy định 
về trình tự xét hỏi (Điều 309); quy định cụ 
thể trách nhiệm của HĐXX, KSV và người 
bào chữa (Điều 320; Điều 322), thời gian và 
giám sát hoạt động nghị án của HĐXX (Điều 
326), yêu cầu về nội dung biên bản nghị án 
để hoạt động nghị án phản án đúng trình tự, 
nội dung thảo luận của HĐXX khi nghị án. 
Thứ ba, triển khai biện pháp thi hành 
quy định cấm các cơ quan, chủ thể khác can 
thiệp đến hoạt động xét xử của Thẩm phán, 
Hội thẩm; bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, 
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo 
pháp luật (Điều 23 BLTTHS năm 2015).
Thứ tư, nâng cao trách nhiệm của Chủ 
tọa phiên tòa trong điều hành phiên tòa theo 
hướng tranh tụng bảo đảm công bằng, dân 
chủ, khách quan; phát huy vai trò của người 
bào chữa trong đảm bảo quyền bình đẳng 
của bị cáo tại phiên tòa. 
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về 
tiêu chuẩn và điều kiện tuyển chọn và bổ 
nhiệm Thẩm phán trong Luật Tổ chức Tòa 
án nhân dân năm 2014. Cụ thể, ngoài những 
tiêu chuẩn chung đối với Thẩm phán (Điều 
67), điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, 
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp 
(Điều 68), Thẩm phán Tòa án nhân dân tối 
cao (Điều 69), việc bổ nhiệm Thẩm phán 
cần đánh giá năng lực công tác và kết quả 
hoạt động thực tiễn của Thẩm phán. Trước 
khi bổ nhiệm hoặc tái bổ nhiệm Thẩm phán, 
cần tiến hành thi tuyển nghiệp vụ xét xử, 
hoặc thời gian 05 năm một lần tiến hành sát 
hạch đối với đội ngũ Thẩm phán để sàng 
lọc những Thẩm phán yếu kém về trình độ 
chuyên môn và nghiệp vụ. Việc sát hạch 
phải tiến hành khách quan, công khai và 
công bằng thông qua việc xử lý các tình 
huống cụ thể mà Thẩm phán phải giải quyết 
trong quá trình xét xử.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng công tác 
đào tạo, bồi dưỡng cho KSV về kỹ năng 
xét hỏi, tranh tụng, đề cao trách nhiệm của 
KSV đối với việc bảo đảm quyền bình đẳng 
của bị cáo tại phiên tòa. Ngành Kiểm sát và 
các cơ quan có liên quan cần quan tâm hơn 
chế độ đãi ngộ cho KSV thực hiện nhiệm vụ 
tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình 
sự của TAND để KSV yên tâm làm nhiệm 
vụ, bảo đảm sự vô tư, khách quan.
Thứ bảy, tăng cường các hoạt động bồi 
dưỡng luật sư về nghiệp vụ, kỹ năng hành 
nghề tạo sự chuyển biến mới về chất lượng 
đội ngũ luật sư; tập trung bồi dưỡng luật sư 
tham gia tranh tụng, nâng cao ý thức, trách 
nhiệm của luật sư trong việc bảo đảm quyền 
bình đẳng của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ 
thẩm vụ án hình sự theo đúng tinh thần của 
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và những 
nội dung BLTTHS năm 2015. 

File đính kèm:

  • pdfbao_dam_quyen_binh_dang_cua_bi_cao_trong_xet_xu_so_tham_vu_a.pdf