Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

TÓM TẮT : Văn học Việt Nam hiện đại đã khởi đầu từ báo chí quốc ngữ latinh.

Báo chí là bà đỡ mát tay cho văn học quốc ngữ và đã góp phần hình thành nên đời sống

văn học hiện đại. Có thể kể đến sự đóng góp rất lớn của Trương Vĩnh Ký với những tờ

báo quốc ngữ đầu tiên như Gia Định báo, Thông loại khóa trình. Đặc biệt là từ đầu thế kỷ

XX, với các tờ báo như Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Nam Kỳ địa phận, Công luận

báo, Phụ nữ tân văn , một đội ngũ các nhà viết tiểu thuyết đã xuất hiện. Nhiều nhà văn

nổi tiếng của Nam Bộ như Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu, Phú Đức,

Bửu Đình trước khi là nhà tiểu thuyết đã là các nhà báo. Hầu hết các tác phẩm của họ

trước khi xuất bản thành sách đã được in nhiều kỳ trên báo chí. Các tờ báo quốc ngữ là

môi trường tốt nhất cho các nhà văn rèn luyện ngòi bút của mình, là nơi kích thích sự

sáng tạo của họ, giúp họ nhanh nhạy nắm bắt thị hiếu của công chúng độc giả. Báo chí

cũng góp phần định hình quan niệm về thể loại, đa dạng hóa các thể tài của tiểu thuyết

đầu thế kỷ XX.

Nhưng báo chí cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nghệ thuật viết tiểu thuyết của các

nhà văn Nam Bộ. Do chiều theo thị hiếu của công chúng, do phải chạy theo tốc độ xuất

bản nên tiểu thuyết trên các báo còn nhiều hạn chế trong việc lựa chọn đề tài, trong kết

cấu, trong ngôn ngữ nghệ thuật

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trang 1

Trang 1

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trang 2

Trang 2

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trang 3

Trang 3

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trang 4

Trang 4

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trang 5

Trang 5

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trang 6

Trang 6

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 6200
Bạn đang xem tài liệu "Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Báo chí quốc ngữ Latinh với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
để 
“luận việc nông cổ, trước là để cho thông 
tình cùng nhau, sau là để cho anh em ai 
có điều chi lợi ích về việc nông cổ thì xin 
tỏ cùng bổn quán in ra cho kẻ đồng chí 
xem chơi. Hoặc là có nghĩ đặng điều chi 
ích lợi thì làm mà chung nhờ cùng nhau”, 
“chẳng phải là có ý tiện mãi văn chương 
hay là sức phí văn quả mà khoe tài”3. 
Nhưng ngay từ số đầu tiên, người đọc đã 
thấy xuất hiện Tam quốc chí tục dịch, 
dịch giả chính là Canavaggio, chủ nhân 
của báo. Đây là bản dịch đầu tiên của 
Tam quốc chí ở nước ta, mà lại do một 
người nước ngoài thực hiện! 
 Nông cổ mín đàm cũng chính là tờ 
báo tổ chức cuộc thi viết tiểu thuyết đầu 
tiên ở nước ta khi “ông Phủ Minh Tân” 
Gilbert Trần Chánh Chiếu về làm chủ 
bút. Cuộc thi mở ra từ tháng 10 năm 
1906, mang tên là Quốc âm thí cuộc với 
giải thích như sau: “Người Langsa gọi 
Roman nghĩa là lấy trí riêng mình mà đặt 
ra một truyện tùy theo nhơn vật, phong 
tục trong xứ, dường như truyện có thiệt 
vậy”4. Cuộc thi không đạt được kết quả 
như ý khi chỉ có tác giả Nguyễn Khánh 
Nhương dự thi với tác phẩm Lương Hoa 
truyện, nhưng cuộc thi đã là tiền đề cho 
sự phát triển mạnh mẽ của thể loại non 
trẻ này chỉ trong vài năm sau. 
 Nông cổ mín đàm theo Bằng 
Giang, là tờ báo đầu tiên đăng một bộ 
tiểu thuyết dày dặn, đúng nghĩa của nó 
(Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng 
Mưu); là nơi xuất hiện những tiểu thuyết 
đầu tiên của văn xuôi Nam Bộ: Hà 
Hương phong nguyệt (1912), Ai làm 
3 Canavaggio, Đáp từ, Nông cổ mín đàm số 7, 
12.9.1901. 
4 Nông cổ mín đàm số 262, 23.10.1905. 
TẠP CHÍ PHT TRIỂN KH&CN, TẬP 9, SỐ 3-2006 
Trang 49 
được (1919) của Hồ Biểu Chánh, 
Nghĩa hiệp kỳ duyên (1920) của 
Nguyễn Chánh Sắt Chính nhờ Nông 
cổ mín đàm mà Lê Hoằng Mưu và 
Nguyễn Chánh Sắt đã trở thành những 
nhà văn danh tiếng của Nam Bộ. Phạm 
Minh Kiên, cây bút viết tiểu thuyết 
lịch sử khỏe nhất của Nam Bộ, tác giả 
của hàng loạt tiểu thuyết như Việt Nam 
Lý trung hưng, Việt Nam anh kiệt, Lê 
triều Lý thị, Tiền Lê vận mạt, Trần 
Hưng Đạo cũng từ Nông cổ mín đàm 
mà trưởng thành. 
 Với 23 năm tồn tại, Nông cổ 
mín đàm không chỉ được biết tới như 
một tờ báo kinh tế đầu tiên của đất 
nước mà còn là mảnh đất ươm mầm 
cho thể loại tiểu thuyết non trẻ của văn 
học hiện đại. 
Lục Tỉnh tân văn cũng là tờ báo 
có uy tín vào bậc nhất ở Nam kỳ vào 
thời kỳ đó. Nhiều cây bút của xứ Bắc, 
Trung đã từng vào Sài Gòn học nghề 
làm báo ở tờ này, từ Nguyễn Văn 
Vĩnh, Phan Khôi đến Trần Huy Liệu, 
Tản Đà Ngay Đông Dương tạp chí 
khi mới ra đời phải ghi trên măng-xét 
của mình là “Ấn phẩm đặc biệt của 
Lục Tỉnh tân văn cho xứ Bắc và Trung 
kỳ”. Từ khi Lê Hoằng Mưu về làm chủ 
bút năm 1921, mảng văn chương trên 
Lục Tỉnh tân văn mới bắt đầu khởi sắc 
với hàng loạt tác phẩm của chính ông 
như Oan kia theo mãi hay Ba mươi 
đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật, Đỗ Triệu 
kỳ duyên, Hoan hỉ kỳ oan, Đêm rốt của 
người tội tử hình 
Ra đời sau Lục Tỉnh tân văn, 
nhưng Công luận báo (chào đời năm 
1916) đã đóng góp cho tiểu thuyết 
Nam Bộ rất nhiều tác phẩm của những 
tên tuổi như Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng 
Mưu, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, 
Dương Minh Đạt, Nam Đình Nguyễn 
Thế Phương, Nguyễn Ý Bửu, Trần 
Quang Nghiệp, Bửu Đình Đây là 
nơi xuất hiện Kim thời dị sử – Ba Lâu 
ròng nghề đạo tặc của Biến Ngũ Nhy, 
quyển tiểu thuyết trinh thám đầu tiên ở 
nước ta. Các tác phẩm nổi tiếng của Phú 
Đức như Hiệp phố châu hườn, Lửa lòng, 
Tiểu anh hùng Võ Kiết cũng xuất hiện 
đầu tiên trên Công luận báo. Chúa Tàu 
Kim Quy của Hồ Biểu Chánh; Oan hồn 
yểu tử, Bình vỡ gương tan của Dương 
Minh Đạt; Bó hoa lài, Vô oan trái, Giọt 
lệ má hồng, Khép cửa phòng thu, Di hận 
ngàn thu của Nam Đình Nguyễn Thế 
Phương; Giọt máu anh hùng, Cù lao 
Thanh Thủy của Trần Quang Nghiệp; 
Một thiên tuyệt bút trường hận của Bửu 
Đình cũng đăng lần đầu trên tờ báo 
này. 
Phụ nữ tân văn cũng là một tờ 
báo có nhiều đóng góp cho văn học Việt 
Nam trong giai đoạn giao thời. Theo Vũ 
Ngọc Phan, đó là “một tạp chí mà sức 
truyền bá đã rất mạnh trong đám trí thức 
đương thời”5. Đây cũng là nơi đăng 
nhiều tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, 
của Bửu Đình; là nơi phát pháo khai cuộc 
tấn công vào thành trì của thơ cũ với bài 
báo Một lối thơ mới trình chánh giữa 
làng thơ và Tình già, bài thơ được cho là 
bài thơ mới đầu tiên của Phan Khôi. 
Có thể nói ngoại trừ Nguyễn 
Trọng Quản do du học ở Algérie nên xa 
sinh hoạt văn học trong nước và do đó đã 
cho ra đời truyện Thầy Lazarô Phiền đi 
trước thời đại như một cánh chim lạ, còn 
hầu hết các nhà tiểu thuyết của chúng ta 
đều từ cái nôi báo chí mà ra, kể cả Hồ 
Biểu Chánh. Có người do nhầm lẫn nên 
cho Hồ Biểu Chánh là một ngoại lệ khi 
nói rằng “hầu như mọi tác phẩm của nhà 
văn có bút lực phi thường này chỉ là ấn 
phẩm của các nhà xuất bản ở Tiền Giang 
và ở Sài Gòn” 6. Thật ra tác phẩm văn 
xuôi đầu tay của Hồ Biểu Chánh là Ai 
làm được đã đăng trên Nông cổ mín đàm 
năm 1919, đến 1922 mới xuất bản thành 
sách. Nhiều tiểu thuyết khác của ông như 
như Cay đắng mùi đời, Vì một chữ tình, 
Tỉnh mộng, Nhơn tình ấm lạnh, Ngọn cỏ 
5 Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập I, Nxb Khoa 
học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 335. 
6 Trần Thị Trâm, Vai trò của báo chí trong sự phát 
triển văn học dân tộc đầu thế kỷ XX, Văn học số 6. 
1994, tr.7. 
TẠP CHÍ PHT TRIỂN KH&CN, TẬP 9, SỐ 3-2006 
Trang 50 
gió đùa, Nam Cực tinh huy đã đăng 
trên Đông pháp thời báo; Chúa Tàu 
Kim Quy đăng trên Công luận báo; Vì 
nghĩa vì tình, Cha con nghĩa nặng, 
Khóc thầm, Con nhà giàu, Con nhà 
nghèo trước khi in thành sách cũng đã 
đăng trên Phụ nữ tân văn. Các tiểu 
thuyết Mảnh trăng thu, Cậu Tám Lọ 
của nhà văn, nhà yêu nước Bửu Đình 
còn lưu lại được cũng là nhờ Phụ nữ 
tân văn đăng vào những năm 30. 
Nhiều nhà văn cũng chúng ta đồng 
thời là nhà báo. Trần Chánh Chiếu đã 
làm chủ bút nhiều tờ báo nổi tiếng như 
Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn 
Lê Hoằng Mưu với tiểu thuyết “bán 
chạy như tôm tươi giữa chợ buổi sớm” 
đồng thời cũng là một nhà báo kỳ cựu, 
“khét tiếng” trong báo giới thời kỳ mới 
phôi thai, là người có lương chủ bút 
cao nhất thời đó. Bửu Đình từng cộng 
tác với tờ Công luận với bút danh Hà 
Trì, là người sáng lập ra tờ Nam Kỳ 
kinh tế báo. 
Nhìn chung, qua sự phát triển 
của báo chí Quốc ngữ đầu thế kỷ XX, 
chúng ta cũng thấy được sự hình thành 
và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ 
nói riêng và tiểu thuyết Việt Nam nói 
chung. Quan sát báo chí đầu thế kỷ 20, 
chúng ta có thể thấy sự phát triển của 
tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Ở thập 
niên đầu của thế kỷ 20, trong Nông cổ 
mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Nam Kỳ 
địa phận chỉ mới có truyện dịch và 
các bút ký, đoản thiên tiểu thuyết, 
trường hợp của Hoàng Tố Anh hàm 
oan của Trần Thiên Trung (tức Trần 
Chánh Chiếu) và Phan Yên ngoại sử – 
Tiết phụ gian truân của Trương Duy 
Toản là rất hiếm hoi. Đến thập niên 
thứ hai, chúng ta mới bắt đầu có tiểu 
thuyết với Hà Hương phong nguyệt 
(1912), Ai làm được (1919) của Hồ 
Biểu Chánh, Nghĩa hiệp kỳ duyên 
(1920) của Nguyễn Chánh Sắt trên 
Nông cổ mín đàm; Kim thời dị sử – Ba 
Lâu ròng nghề đạo tặc (1917) của 
Biến Ngũ Nhy trên Công luận báo. 
Thập niên thứ ba là thập niên phát 
triển mạnh mẽ nhất của tiểu thuyết Quốc 
ngữ Nam Bộ như chúng ta thấy trên các 
báo Lục tỉnh tân văn, Công luận báo... 
Đến Nam Kỳ địa phận, tờ báo của Công 
giáo cũng dành đất để đăng tiểu thuyết và 
đến năm 1926 báo tăng thêm số trang và 
dành hẳn phần phụ trương (supplément 
du N.K.Đ.P.) gồm 4 trang chuyên đăng 
quảng cáo và truyện, tiểu thuyết. Các tiểu 
thuyết đăng trên phụ trương như Người 
mặt sắt (1932), Mối thù mật nhiệm 
(1934).... là những tiểu thuyết phiêu lưu, 
mạo hiểm và có cả tiểu thuyết hình sự 
như Trên đường quản hạt (1932). Đến 
1925 Nam Kỳ địa phận đã có các truyện 
có cốt truyện Việt Nam, nhân vật Việt 
Nam như Bạch Mai truyện của J.Trần T. 
và Huỳnh Ngọc Diệp của T.N.C.Đ. 
Báo chí là nơi định hình quan 
niệm về tiểu thuyết, là diễn đàn, là nơi 
giới thiệu, phê bình các tiểu thuyết mới 
ra đời. Nhiều trận bút chiến nảy lửa đã nổ 
ra như trận bút chiến quanh tiểu thuyết 
Hà Hương hoa nguyệt của Lê Hoằng 
Mưu. Công Luận báo thời đó đã gọi Lê 
Hoằng Mưu là “đứa tội nhơn lớn nhứt 
của An Nam”7. Cuối cùng chính quyền 
thuộc địa đã ra lệnh tịch thu và tiêu huỷ 
tác phẩm. Tác phẩm Lỗi bước phong tình 
của Nguyễn Thành Long cũng đã chịu 
búa rìu dư luận trên Nam Kỳ kinh tế 
báoNhững cuộc thi tiểu thuyết trên 
Nông cổ mín đàm, trên Đuốc Nhà Nam 
đã góp phần vào phong trào viết tiểu 
thuyết và đã giới thiệu được nhiều tác giả 
mới và tác phẩm có giá trị như Nguyễn 
Khánh Nhương, Phan Huấn Chương 
với Lương Hoa truyện, Hòn máu bỏ rơi 
Nhưng báo chí cũng có lúc “làm 
hại” tiểu thuyết. Yếu tố giải trí được coi 
trọng hơn các chức năng khác, việc chạy 
theo thị hiếu quần chúng dẫn đến loại 
tiểu thuyết feuilleton viết nhanh, viết 
ẩu Một vài tiểu thuyết như Hồ Thể 
7 Công luận báo, số 40- 41, năm 1928. 
TẠP CHÍ PHT TRIỂN KH&CN, TẬP 9, SỐ 3-2006 
Trang 51 
Ngọc, Hà Hương phong nguyệt (Lê 
Hoằng Mưu), Một duyên hai nợ ba 
tình (Nguyễn Phú Hựu), Hồng phấn 
phiêu lưu (Vạn Trọng Huân) đã ở 
trong tình trạng dở dang, đang hồi vào 
cao trào thì ngưng đăng, làm công 
chúng rất ấm ức. Không có phần kết 
thúc là chuyện thường ngày của nhiều 
tiểu thuyết đăng báo thời ấy. 
 Do chiều theo thị hiếu của công 
chúng và do phải chạy theo tốc độ xuất 
bản nên tiểu thuyết trên các báo còn 
nhiều hạn chế trong việc lựa chọn đề 
tài, trong kết cấu, trong ngôn ngữ nghệ 
thuật Tiểu thuyết tình yêu có lúc đã 
chiếm số lượng chủ yếu do thị hiếu của 
công chúng thành thị. Tùng Lâm trên 
Công luận báo có nhận xét: “Xã hội ta 
hiện giờ, phần nhiều lại ưa đọc tiểu 
thuyết TÌNH, bất kì chuyện gì, bất kể 
lối văn gì, miễn cho có chuyện tình là 
ưa đọc lắm”8. Có tác phẩm khi đăng 
báo phần đầu rất mới mẻ, như Hà 
Hương phong nguyệt của Lê Hoằng 
Mưu chẳng hạn, nhưng vì chiều theo 
thị hiếu độc giả nên phần sau lại quay 
về với lối văn biền ngẫu cũ kỹ. Nam 
Đình Nguyễn Thế Phương có lẽ cũng ý 
thức được hạn chế của loại tiểu thuyết 
feuilleton nên khi xuất bản Chén thuốc 
độc có nói thêm ở cuối sách: “Tiểu 
thuyết Chén thuốc độc nay viết từng 
ngày đăng báo, thành thử còn nhiều 
chỗ sống sượng. Ngay đến khi xuất 
bản thành quyển, tôi cũng vẫn giữ 
nguyên văn không sửa một chữ nào. 
Độc giả tưởng cũng biết mà thứ cho”. 
Phi Vân trong lời nói đầu tập phóng sự 
– tiểu thuyết Đồng quê cũng cho:“Đây 
là những bài báo. Bởi thế cách hành 
văn cũng như nội dung đều có tính 
cách “nhật trình”. Lối văn gần như cẩu 
thả. Câu chuyện có vẻ nhất thời”. 
Nhìn chung, cho đến hiện nay, 
các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể tổng 
kết hết những đóng góp cụ thể của báo 
chí Quốc ngữ đầu thế kỷ 20 đối với sự 
phát triển của văn học nói chung và 
8 Công luận báo số 45, 21.3.1925. 
tiểu thuyết nói riêng. Đó là do tư liệu tản 
mát, thất lạc phần lớn và còn do quan 
niệm sai lầm của chúng ta. Như Nam Kỳ 
địa phận, xuất hiện cùng thời với Nông 
cổ mín đàm và Lục Tỉnh tân văn và tồn 
tại gần 40 năm, tờ báo được nhà nghiên 
cứu Nguyễn Văn Trung cho là Nam 
Phong của Nam Kỳ, nhưng lâu nay Nam 
Kỳ địa phận ít được giới nghiên cứu văn 
học chú ý, có lẽ do có sự ngộ nhận khi 
thấy đây là một tờ báo của tôn giáo. Nam 
Kỳ kinh tế báo do cái tên của nó nên 
cũng ít được quan tâm. Ngoài ra còn 
Đông pháp thời báo, nơi đăng Giấc 
mộng con của Tản Đà và những tiểu 
thuyết ban đầu của Hồ Biểu Chánh; nơi 
đăng nhiều tác phẩm của Trần Quang 
Nghiệp, Bửu Đình. Rồi còn Thần chung, 
Trung lập báo, Tân đợi thời báo Đó là 
nhũng “hóa thạch văn hóa” cần phải 
được khai thác kỹ để khôi phục lại diện 
mạo cho văn học Nam Bộ và văn học 
Việt Nam nói chung. 
TẠP CHÍ PHT TRIỂN KH&CN, TẬP 9, SỐ 3-2006 
Trang 52 
THE LATIN-BASED NATIONAL LANGUAGE PRESS AND ITS ROLE IN 
ESTABLISHING AND DEVELOPING THE NOVEL IN COCHINCHINA AT THE 
TURN OF THE 20th CENTURY 
Vo Van Nhon 
University of Social Sciences of Humanities, VNU-HCM 
 ABSTRACT : Modern Vietnamese literature rose from the Latin-based national 
language press. This press has been considered a "skillful midwife" for the literature in 
the national language, giving birth to Vietnamese modern literature of today. It is 
important to note the great contribution to this press by Truong Vinh Ky with his writings 
in the first national language press like Gia Dinh Bao or Thong loai khoa trinh. The 
beginning of the 20th century saw the mushroomings of other national language 
newspapers such as Nong Co Min Dam, Luc tinh tan van, Nam Ky dia phan, Cong luan 
bao, Phu nu tan van, etc, and with them the appearance of a new generation of novelists. 
Many of the famous writers in Cochinchina such as Tran Chanh Chieu, Ho Bieu Chanh, 
Le Hoang Muu, Phu Duc, Buu Dinh had been journalists before they became novelists. 
Many of their works had appeared in newspapers in serialised form before they were 
published in book form. The national language press provided the best environment for 
writers to practise their writing skills, stimulating their creativity and helping them to 
quickly understand the reader's taste. The press also helped establishing the notion of 
genres and diversifying different types of novels at the beginning of the 20th century. 
On the other hand, the press also left some negative influences on the art of writing 
of novelists in Cochinchina. As they were writing only to the reader's taste and the 
demand of the publisher, these novels written in serialised form still had a number of 
limitations in terms of theme choice, structure, and diction. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Thị Kim Anh (chủ biên) (2004), Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu 
thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM. 
[2]. Maurice M. Durand and Nguyen Tran Huan (1985), An Introduction to Vietnamese 
Literature, translated by D. M. Hawke, New York: Columbia University Press. 
[3]. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
[4]. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1988), Địa chí văn hoá TP. Hồ Chí 
Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
[5]. Đỗ Quang Hưng (2000), Lịch sử báo chí Việt Nam 1985 – 1945, NXB Đại học 
Quốc gia Hà Nội. 
TẠP CHÍ PHT TRIỂN KH&CN, TẬP 9, SỐ 3-2006 
Trang 53 
[6]. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 
(1900 – 1930), Nxb ĐH và THCN, Hà Nội. 
[7]. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[8]. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và 
Thơ mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
[9]. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, Nxb Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
[10]. Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú (1976), Lịch sử văn học Việt Nam (Thời kỳ II: 
Giai đoạn II: Đầu thế kỷ XX – 1930), in lần thứ 4, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfbao_chi_quoc_ngu_latinh_voi_su_hinh_thanh_va_phat_trien_cua.pdf