Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt

Phủ định là hiện tượng ngôn ngữ thường xuất hiện trong giao tiếp. Trong phạm vi bài viết

này, dưới góc nhìn ngữ nghĩa học và dụng học, chúng tôi bàn luận về phương thức phủ định dụng học tiếng

Hán và tiếng Việt. Kết quả cho thấy, phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt đều thực

hiện qua hình thức vi phạm một số nguyên tắc và tiêu chí chung như sử dụng phản ngữ, nói lặp lại, sử dụng

lối diễn đạt lảng tránh, cố tình chuyển đổi nội dung chủ đề, dùng phương thức tỉnh lược, giữ im lặng, hoặc

thông qua cách thức suy luận về thời gian không thể xác định, sự việc không thể thực hiện hay không thể

xảy ra, sự vận động trái chiều với qui luật chung, hoặc dự báo về hậu quả tiêu cực có thể xảy ra. Xét về tổng

thể của phương thức phủ định này, có thể thấy được những điểm giống nhau khá nhiều trong tiếng Hán và

tiếng Việt, nhưng quan sát chi tiết cho thấy có sự khác biệt mang đặc thù riêng của từng cộng đồng ngôn

ngữ. Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu có thể góp thêm tài liệu tham khảo trong dạy học, đối chiếu,

nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài tại Việt Nam.

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 1

Trang 1

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 2

Trang 2

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 3

Trang 3

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 4

Trang 4

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 5

Trang 5

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 6

Trang 6

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 7

Trang 7

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 8

Trang 8

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 9

Trang 9

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 3940
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt

Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt
g câu nói của bạn”. 
(“如果你必须触犯他人,起码要做到
避免与礼貌原则相悖,而应让听话人通过
对含义的推导,间接领会你会话中的触犯
点。”) (Chu Tĩnh/周静, 2003)
Tiếng Hán và tiếng Việt diễn đạt như sau:
(16) 四嫂:我找二嘎子去啦。找了七
开八得,也找不着他!(Thím Tứ: Tôi đã đi 
tìm thằng hai rồi. Tìm khắp các nơi các chốn 
cũng chẳng tìm ra nó)
丁四:对,再把儿子丢了,够多么好
啊!我是得躲开这块倒霉的地方!这个地
方不出好!
(Đinh Tứ: Đúng, lại làm lạc thêm thằng 
bé, quá tốt rồi! Tôi sẽ bỏ cái nơi xui xẻo này! 
Nơi này không có tốt lành gì đâu!) (Lão Xá/老
舍,《龙须沟》, 1952)
Trong ví dụ (16) với bối cảnh là đứa con 
gái của Đinh Tứ bị chết đuối ở đầm Long Tu, 
thằng con thứ hai cũng không tìm thấy, trong 
lòng Đinh Tứ đang rất lo lắng mà lại còn nói 
“quá tốt rồi”, rõ ràng ở đây phải hiểu nghĩa 
ngược lại là “quá tồi tệ”. Nghĩa phủ định được 
nhấn mạnh qua lối nói ngược, mang thêm ngữ 
khí châm chọc, nói kháy, đay nghiến, mỉa mai. 
Trong tiếng Việt cũng sử dụng phương thức 
diễn đạt cố tình vi phạm về cách thức để biểu 
thị như khen ngược (khen đểu): “Đẹp mặt 
nhỉ!” (không hề đẹp, rất xấu), “Môn đăng hộ 
đối lắm nhỉ” (không đối đẳng, rất chênh lệch).
(2) Sử dụng phương thức lặp lại lời nói 
của đối phương
Tiếng Hán và tiếng Việt cùng sử dụng cách 
thức lặp lại lời nói của đối phương thường 
biểu thị sự phủ định về tính xác thực, sự 
không quan tâm và mang ngữ khí châm biếm. 
Ở một mức độ nhất định nào đó mang hàm ý 
gần giống với lối nói ngược. Trong tiếng Hán 
có một số cấu trúc hình thức diễn đạt ý phủ 
định này. Như: “还X呢”、“什么X”、 
“什么X不X”、“X什么”. Ví dụ:
(17)甲:咱们再等他一会吧! (A: 
Chúng ta đợi nó thêm lát nữa đi!)
乙:还等他呢!什么时候了?(B: Còn 
đợi nó nữa à! Đã là mấy giờ rồi?) (Chu Tĩnh/
周静, 2003)
Hàm nghĩa câu đáp của B là “không thể 
đợi thêm được nữa”.
Khi trả lời câu hỏi: - “Đẹp không ?”, tiếng 
Việt diễn đạt: - “Đúng, đẹp, đẹp, đe-ẹp 
lắm!” kèm theo sự cố tình kéo dài âm đọc sẽ 
có ngữ khí mỉa mai và biểu thị ý chê là xấu.
(3) Sử dụng phương thức lảng tránh, hoặc 
chuyển đổi nội dung chủ đề giao tiếp 
Khi không muốn trả lời thẳng thắn câu hỏi 
của đối phương, có thể vận dụng nguyên tắc 
bất hợp tác trong hội thoại để diễn đạt ý phủ 
định của mình một cách uyển chuyển. Ví dụ:
(18) 甲:明天去看老李,好吗?(A: 
Ngày mai mình đến thăm ông Lý được không?)
乙:还要复习啊。后天要考试了。(B: 
Tôi còn phải học ôn. Ngày kia thi rồi) (Phong 
Tông Tín/ 封宗信, 2008)
135Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138
(19) A: Cậu có thể giúp tôi nấu cơm được 
không?
B: Liên nấu nướng ngon lắm đấy. (Cầm 
Tú Tài, 2007)
Ví dụ (18) cho thấy B đã tránh trả lời A 
bằng hiển ngôn ý phủ định, và sử dụng phương 
thức chuyển chủ đề để biểu đạt ý “tôi phải ôn 
thi, không đi thăm ông Lý được”. Trong câu 
(19) B đã không nói thẳng ra câu từ chối việc 
nấu cơm của mình, mà lảnh tránh bằng cách 
chuyển hướng chú ý đến một đối tượng khác.
(4) Sử dụng phương thức tỉnh lược, hoặc 
im lặng
Tiếng Hán và tiếng Việt cùng sử dụng 
phương thức này để diễn đạt ý phủ định. Ngữ 
cảnh đối đáp cho phép lược bỏ nội dung của 
câu đã được xác định mà vẫn đảm bảo được 
nội dung thông tin. Im lặng thường được dùng 
để diễn tả sự e thẹn, uất ức, nghẹn ngào, chế 
nhạo hoặc giống mục (3) nêu trên. Ví dụ: 
(20) 父亲:这次考试,你考得怎么
样?(Bố: Kết quả thi của con lần này thế nào?)
孩子:我 (Con: Con) (Cầm Tú 
Tài, 2007)
Sự im lặng sau đó của người con đã giúp 
cho người cha đoán ra được: kết quả thi không 
tốt, người con có ý diễn đạt qua hình thức ý tại 
ngôn ngoại.
Phương thức tỉnh lược còn tạo ra các câu 
rút gọn đặc biệt được diễn đạt bằng các từ phủ 
định, làm cho sự đối đáp trong phong cách 
khẩu ngữ diễn ra nhanh chóng, tiện lợi và tiết 
kiệm. Ví dụ:
(21) (Nó lắc đầu) - Em không sợ. Em làm 
ra tiền mà ăn. Không đi ăn mày.
(Đức bảo nó) - Thì tội gì mà khổ thân. Cứ 
ở nhà này.
- Không.
- Thế thì tôi đi với mợ.
(Nó sợ hãi) - Không.
(Diệp Quang Ban - Ngữ pháp tiếng Việt, 2004)
4.3.2. Sử dụng phương thức suy luận
(1) Về khả năng thực hiện hay xảy ra
Ví dụ:
(22) 甲:你什么时候嫁给他?(A: Bao 
giờ thì bạn đồng ý lấy anh ta?)
乙:下一辈子吧。(B: Sang kiếp sau 
nhé) (Tôn Tĩnh/ 孙静, 2012)
(23) 甲:让他陪你一起去。(A: Để nó 
dẫn anh đi)
 乙:让他?除非太阳从西边出来。(B: 
Để nó dẫn ư? Trừ phi mặt trời mọc ở hướng 
tây nhé) (Tôn Tĩnh/ 孙静, 2012)
Trong ví dụ (22) B không đồng ý lấy anh 
ta, và cũng không muốn nói thẳng điều này ra, 
nên đã mượn thời gian không thể có được để 
biểu đạt ý “Không bao giờ có chuyện đồng ý 
lấy anh ta”. Hình thức câu nói là khẳng định, 
những thực chất là mang nghĩa phủ định. 
Trong ví dụ (23) hiển nhiên mặt trời không 
thể mọc từ hướng Tây được, có được điều 
kiện này “tôi mới đồng ý cho nó dẫn đi”. Do 
vậy, “tôi dứt khoát không đồng ý để nó dẫn 
đi”, hoặc “nó tuyệt đối không thể dẫn tôi đi 
được”. Trong tiếng Việt cũng có lối diễn “Mò 
kim đáy biển” là không thể thực hiện nổi. Do 
đó, việc này dứt khoát không thực hiện nổi. 
Hoặc sử dụng những ngữ cố định như “Đến 
mùa quýt”, “Chờ đến tết Công-gô” (Cộng 
hòa Dân chủ Công-gô là một đất nước ở châu 
Phi không đón tết hằng năm, mà phải chờ đợi 
đến 50 năm mới đón tết). Người Việt đã mượn 
các hình ảnh này để ví với sự việc hay tình 
huống nào đó quá xa vời, không biết xác định 
vào thời gian cụ thể nào, vì vậy sẽ rất khó khả 
thi hoặc không bao giờ có thể diễn ra. Ví dụ:
(24) Theo các chuyên gia Âu - Mỹ, việc 
phát hiện và ngăn chặn sát thủ “sói đơn 
độc” như mò kim đáy biển. (Báo điện tử Dân 
trí, 2016)
(2) Về đặc điểm nổi bật, khác biệt so với 
qui luật chung
(25) 甲:这支枪是一个重要的破案线
索。(A: Khẩu súng này là đầu mối quan trọng 
để phá án đấy)
乙:这个城市几乎每个人都有这种
枪。(B: Trong thành phố hầu như người nào 
cũng có loại súng này) (Cầm Tú Tài, 2007)
136 C.T. Tài / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138
Từ đó có thể suy luận, khẩu súng này 
không có đặc điểm gì đặc biệt cả, không thể 
coi là đầu mối dung để phá án được. Đặc điểm 
chung đã phủ định ý kiến này. Trong tiếng 
Việt cũng có cách diễn đạt như sau:
(26) Ở khoa chúng tôi có tới 4 cô giáo tên 
là Hà. Em nói đầy đủ tên họ thì tôi mới biết là 
cô Hà nào chứ. (Ngữ liệu ghi chép trong giao 
tiếp, 2015)
(3) Qua phương thức khuyên giải, răn đe, 
ngăn chặn, dự báo kết cục xấu
(27) 我再等你一会儿,飞机就要飞
了。(Tôi mà đợi bạn thêm lát nữa thì máy bay 
sẽ bay mất) (Cầm Tú Tài, 2007)
(28) (Hai người hàng xóm nói chuyện với 
nhau):
 A: Vợ của anh Quang hiền nhỉ!
 B: Xem lại đi, sư tử Hà Đông đấy! 
(Siriwong Hongsawan, 2010: 146)
Ví dụ (27) sử dụng dự báo đoán định kết 
cục xấu sẽ xảy ra để truyền đạt hàm ý “Tôi 
không thể đợi thêm được nữa”. Trong ví dụ 
(28) B không đồng tình với ý kiến của A, và 
biểu thị hàm ý phủ định bằng cách khuyên giải 
A xem xét lại, so sánh liên hệ tới một hình ảnh 
trái chiều với tính cách ghen tuông, nóng nảy, 
dữ dằn của người vợ trong văn hóa dân gian 
Việt Nam mà mọi người đều biết tới. Ngoài 
ra còn có thể sử dụng nhiều ngữ cố định khác 
để biểu đạt ý phủ định. Như: “癞蛤蟆想吃
天鹅肉/ con cóc ghẻ muốn ăn thịt thiên nga” 
(tiếng Hán), tương đương với “Đũa mốc đòi 
chòi mâm son” (tiếng Việt), qua hình ảnh của 
mâm son và đũa mốc để ví với sự sai lệch, 
cách biệt quá xa, không đủ khả năng để làm 
nổi công việc gì đó. “猴年马月/ tháng ngựa 
năm khỉ” (tiếng Hán) tương đương với “Chờ 
đến tết Công-gô” (tiếng Việt), mang nghĩa: 
không bao giờ có, không bao giờ diễn ra. “
八字还没一撇/ chữ số 8 còn thiếu một dấu 
phẩy”: chữ viết của số 8 tiếng Hán vốn có 2 
nét viết, còn thiếu một nét phẩy sẽ không hình 
thành nên con số này được. Ý nghĩa ví von 
là: còn chưa đầy đủ, chưa xong. “喝西北风/ 
uống gió tây bắc” (tiếng Hán) tương đương 
với câu “ăn không khí”, “cạp đất mà ăn” 
của tiếng Việt, mang nghĩa: chẳng có thứ gì 
cả;“xưa như trái đất rồi”, mang nghĩa: chẳng 
có gì mới mẻ nữa, v.v...
5. Một số vấn đề tiếp theo trong nhận diện 
chiều sâu về phương thức phủ định dụng 
học tiếng Hán và tiếng Việt
So với việc sử dụng các từ ngữ phủ định 
thông thường, phủ định dụng học trong tiếng 
Hán và tiếng Việt luôn thể hiện sự vi phạm các 
nguyên tắc và tiêu chí nào đó trong giao tiếp. 
Chúng trở thành hiện tượng phổ biến được 
cộng đồng ngôn ngữ mặc nhiên qui ước và 
chấp thuận. Điều đó cũng phản ánh đặc điểm 
tri nhận và qui luật biểu đạt ngôn ngữ dân tộc. 
Phương thức phủ định dụng học trong tiếng 
Hán và tiếng Việt là rất phong phú đa dạng, có 
thể sử dụng trực triếp từ ngữ phủ định, cũng 
có thể sử dụng phương tiện từ ngữ khác mang 
hàm nghĩa tiêu cực, có ngữ khí phản vấn, cần 
suy luận để diễn đạt. Do đó, phủ định dụng 
học có thể mang lại tính hàm súc trong lời nói, 
giúp cho phát ngôn ngắn gọn mà chất chứa 
nhiều nội dung, ý nghĩa, tạo hiệu quả mạnh 
mẽ, sâu sắc với người nghe. Ở một số ngữ 
cảnh nhất định còn góp phần đảm bảo thể diện 
cho người tham gia giao tiếp. 
Xem xét những nghiên cứu liên quan cho 
thấy các học giả thường chú ý nhiều hơn tới 
phương thức phủ định từ vựng. Do đó, thường 
xuất hiện nhiều nghiên cứu về từ phủ định, 
cấu trúc phủ định, tiêu điểm phủ định, phạm 
vi phủ định, ngữ nghĩa phủ định Còn những 
nghiên cứu chiều sâu về phủ định dụng học 
thì vẫn còn rất ít. Nội dung nghiên cứu, góc 
tiếp cận, phương pháp tiến hành, thuật ngữ sử 
dụng còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục làm rõ. 
Chúng tôi nhận thấy một số vấn đề sau cần 
tiếp tục được nhận diện về chiều sâu:
(1) Nghiên cứu phủ định dụng học còn 
nhiều nội dung giao thoa và phân tách chưa 
được rõ ràng, các minh chứng được đưa ra có 
lúc là câu đơn, có lúc là hội thoại, có lúc là 
diễn ngôn trong giao tiếp, có lúc là các câu 
tường thuật, v.v trong khi đó, trong hành 
137Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138
chức của ngôn ngữ, diễn ngôn và cặp thoại 
trong hội thoại cần được chú trọng phân tích 
để từ đó nhận ra chân trị của phủ định.
(2) Nhiều thuật ngữ cần được thống nhất, 
nhiều khái niệm cần giải thích rõ ràng. Chẳng 
hạn còn nhiều cách diễn đạt khác nhau về tên 
gọi: phủ định hàm ý, phủ định siêu ngôn ngữ, 
phủ định dụng học, phủ định trực tiếp, phủ định 
gián tiếp, phủ định phi dấu hiệu, phủ định tu từ 
học Nhiều tên gọi và khái niệm chưa mang 
tính thống nhất và còn mang nội dung trùng lặp.
(3) Nội dung về hàm ý phủ định trong 
hội thoại chưa được chú trọng nghiên cứu về 
chiều sâu, chưa được phân loại và làm rõ về 
phạm vi.
(4) Chưa có nhiều nghiên cứu đối chiếu, 
chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau 
giữa tiếng Hán và tiếng Việt trong phương 
thức phủ định dụng học.
(5) Trong dạy học tiếng Hán và tiếng Việt 
như một ngoại ngữ cần chú ý tận dụng lợi thế 
các nội dung chuyển di tích cực trong tiếng 
mẹ đẻ để tìm hiểu các chức năng của phủ định 
dụng học.
(6) Cần chú ý hơn tới nội hàm văn hóa 
dân tộc, đặc trưng tâm lý của người bản ngữ 
thể hiện trong các phương thức phủ định dụng 
học được sử dụng trong giao tiếp.
6. Kết luận
Tìm hiểu về phương thức phủ định dụng 
học trong tiếng Hán và tiếng Việt cho thấy cả 
hai ngôn ngữ đều sử dụng các phương thức như 
phản ngữ, cách nói lặp lại, sử dụng lối diễn đạt 
lảng tránh, chuyển đổi nội dung chủ đề, dùng 
phương thức tỉnh lược, giữ im lặng, hoặc thông 
qua cách thức suy luận về thời gian không 
thể xác định, sự việc không thể thực hiện hay 
không thể xảy ra, sự vận động trái chiều với 
qui luật chung, hoặc dự báo về hậu quả tiêu 
cực có thể xảy ra... Kết quả khảo sát cho thấy 
về tổng thể, phương thức diễn đạt ý phủ định 
dụng học trong hai ngôn ngữ Hán – Việt có rất 
nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên, phân tích 
chiều sâu cho thấy trong mỗi ngôn ngữ đều có 
đặc trưng riêng, mang nội dung văn hóa dân 
tộc đặc thù thể hiện nét khác biệt của mỗi ngôn 
ngữ. Trên đây mới chỉ là những nội dung đề 
cập chưa được đầy đủ, mới dừng lại ở mức độ 
liên hệ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Chúng tôi 
hy vọng kết quả nghiên cứu có thể góp thêm 
tài liệu tham khảo trong dạy học, đối chiếu, 
nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Hán - Việt 
ở Việt Nam, đồng thời cũng mong muốn tiếp 
tục được trao đổi cùng các chuyên gia, đồng 
nghiệp để có được nội dung hoàn chỉnh hơn.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Diệp Quang Ban (1998). Giáo trình Ngữ pháp tiếng 
Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
Nguyễn Đức Dân (1996). Logic và tiếng Việt. Hà Nội: 
Nxb. Giáo dục.
Nguyễn Thiện Giáp (2004). Dụng học Việt ngữ. Hà Nội: 
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Siriwong Hongsawan (2010). Các phương tiện thể hiện 
hành động bác bỏ trong tiếng Thái và tiếng Việt. Hà 
Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Như Ý chủ biên (1996). Từ điển giải thích thuật 
ngữ Ngôn ngữ học. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
Trần Chi Mai (2005). Cách biểu hiện hành vi từ chối lời 
cầu khiến bằng các phát ngôn lảng tránh. Tạp chí 
Ngôn ngữ, 1, 41-50. 
Cầm Tú Tài (2007). Bàn về ý phủ định trong tiếng Hán 
và tiếng Việt. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Ngoại 
ngữ, 23, 155-166.
Tiếng Anh
Grice, P. H. (1975). Logic and Conversation. In P. Cole, 
& J. Morgan (eds.), Semantic 3: Speech Acts (pp. 
41-58). New York: Academic Press.
Leech, G. N. (1983). Principles of Pragmatics. London; 
New York: Longman Inc.
Levinson, S. C. (1983), Pragmatics. Cambridge: 
Cambridge University Press.
Searle, J. R., Kiefer, F., & Bierwisch, M. (1980). Speech 
Act Theory and Pragmatics. Dordrecht: D. Reidel 
Publishing Company.
Tiếng Trung Quốc
陈平(1996). 英汉否定结构比较. 上海:上海教育出
版社。
封宗信 (2008).现代语言学流派概论. 北京:北京大
学出版社。
138 C.T. Tài / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138
何兆雄(2000).新编语用学概论. 上海:上海教育出版
社。
沈家煊 (1993). 语用否定观察. 中国语文, 5 (1993), 
321 – 33。
宋荣超(2010). “语用否定”考证. 长春师范大学
学报,1(2010), 118 – 122。
孙静 (2012). 否定的语用简析. 青年文学家杂志, 
2 (2012), 17 – 25。
徐盛恒 (1994). 新格莱斯会话含义理论和含意否
定. 外语教学与研究,4(1994), 30 – 35。
周静 (2003). 汉语中无标记否定表达手段探微. 商
丘师范学院学报,1(2003), 105-107。 
农鸿幸 (2009). 汉越语否定表达之比较. 广西民族
大学硕士学位论文。
Nguồn ngữ liệu
h t tp s : / / dan t r i . com.vn / the -g io i /mo-k im-day -
bien-20160829121224095.htm: đăng nhập 20/ 01/ 
2019.
đăng nhập 10/ 12/ 2018.
A DISCUSSION ON PRAGMATIC NEGATION 
IN CHINESE AND VIETNAMESE
Cam Tu Tai
Faculty of Graduate Studies, VNU University of Languages and International Studies,
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract: Negation is a phenomenon that often occurs in language communication. In the 
context of this article, from semantic, pragmatic and contrastive perspectives, we discuss and 
compare pragmatic negation in Chinese and Vietnamese. The results show that pragmatic negation 
in Chinese and Vietnamese is expressed through the use of antiphrasis, repetition, avoidant 
expression, topic change, or by way of ellipsis, silence, or making inference about indefinite 
time, unpredictable or unlikely events, contrariwise movement with common law, or prediction 
of negative effects. Overall, there are similarities between the two languages, but there are still 
some differences due to the characteristics of each language. We hope that the results of the study 
can be used as a reference for teaching, contrasting, and studying foreign languages and cultures 
in Vietnam.
Keywords: negation, pragmatics, Chinese, Vietnamese

File đính kèm:

  • pdfban_ve_phuong_thuc_phu_dinh_dung_hoc_trong_tieng_han_va_tien.pdf