Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt
Phủ định là hiện tượng ngôn ngữ thường xuất hiện trong giao tiếp. Trong phạm vi bài viết
này, dưới góc nhìn ngữ nghĩa học và dụng học, chúng tôi bàn luận về phương thức phủ định dụng học tiếng
Hán và tiếng Việt. Kết quả cho thấy, phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt đều thực
hiện qua hình thức vi phạm một số nguyên tắc và tiêu chí chung như sử dụng phản ngữ, nói lặp lại, sử dụng
lối diễn đạt lảng tránh, cố tình chuyển đổi nội dung chủ đề, dùng phương thức tỉnh lược, giữ im lặng, hoặc
thông qua cách thức suy luận về thời gian không thể xác định, sự việc không thể thực hiện hay không thể
xảy ra, sự vận động trái chiều với qui luật chung, hoặc dự báo về hậu quả tiêu cực có thể xảy ra. Xét về tổng
thể của phương thức phủ định này, có thể thấy được những điểm giống nhau khá nhiều trong tiếng Hán và
tiếng Việt, nhưng quan sát chi tiết cho thấy có sự khác biệt mang đặc thù riêng của từng cộng đồng ngôn
ngữ. Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu có thể góp thêm tài liệu tham khảo trong dạy học, đối chiếu,
nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt
g câu nói của bạn”. (“如果你必须触犯他人,起码要做到 避免与礼貌原则相悖,而应让听话人通过 对含义的推导,间接领会你会话中的触犯 点。”) (Chu Tĩnh/周静, 2003) Tiếng Hán và tiếng Việt diễn đạt như sau: (16) 四嫂:我找二嘎子去啦。找了七 开八得,也找不着他!(Thím Tứ: Tôi đã đi tìm thằng hai rồi. Tìm khắp các nơi các chốn cũng chẳng tìm ra nó) 丁四:对,再把儿子丢了,够多么好 啊!我是得躲开这块倒霉的地方!这个地 方不出好! (Đinh Tứ: Đúng, lại làm lạc thêm thằng bé, quá tốt rồi! Tôi sẽ bỏ cái nơi xui xẻo này! Nơi này không có tốt lành gì đâu!) (Lão Xá/老 舍,《龙须沟》, 1952) Trong ví dụ (16) với bối cảnh là đứa con gái của Đinh Tứ bị chết đuối ở đầm Long Tu, thằng con thứ hai cũng không tìm thấy, trong lòng Đinh Tứ đang rất lo lắng mà lại còn nói “quá tốt rồi”, rõ ràng ở đây phải hiểu nghĩa ngược lại là “quá tồi tệ”. Nghĩa phủ định được nhấn mạnh qua lối nói ngược, mang thêm ngữ khí châm chọc, nói kháy, đay nghiến, mỉa mai. Trong tiếng Việt cũng sử dụng phương thức diễn đạt cố tình vi phạm về cách thức để biểu thị như khen ngược (khen đểu): “Đẹp mặt nhỉ!” (không hề đẹp, rất xấu), “Môn đăng hộ đối lắm nhỉ” (không đối đẳng, rất chênh lệch). (2) Sử dụng phương thức lặp lại lời nói của đối phương Tiếng Hán và tiếng Việt cùng sử dụng cách thức lặp lại lời nói của đối phương thường biểu thị sự phủ định về tính xác thực, sự không quan tâm và mang ngữ khí châm biếm. Ở một mức độ nhất định nào đó mang hàm ý gần giống với lối nói ngược. Trong tiếng Hán có một số cấu trúc hình thức diễn đạt ý phủ định này. Như: “还X呢”、“什么X”、 “什么X不X”、“X什么”. Ví dụ: (17)甲:咱们再等他一会吧! (A: Chúng ta đợi nó thêm lát nữa đi!) 乙:还等他呢!什么时候了?(B: Còn đợi nó nữa à! Đã là mấy giờ rồi?) (Chu Tĩnh/ 周静, 2003) Hàm nghĩa câu đáp của B là “không thể đợi thêm được nữa”. Khi trả lời câu hỏi: - “Đẹp không ?”, tiếng Việt diễn đạt: - “Đúng, đẹp, đẹp, đe-ẹp lắm!” kèm theo sự cố tình kéo dài âm đọc sẽ có ngữ khí mỉa mai và biểu thị ý chê là xấu. (3) Sử dụng phương thức lảng tránh, hoặc chuyển đổi nội dung chủ đề giao tiếp Khi không muốn trả lời thẳng thắn câu hỏi của đối phương, có thể vận dụng nguyên tắc bất hợp tác trong hội thoại để diễn đạt ý phủ định của mình một cách uyển chuyển. Ví dụ: (18) 甲:明天去看老李,好吗?(A: Ngày mai mình đến thăm ông Lý được không?) 乙:还要复习啊。后天要考试了。(B: Tôi còn phải học ôn. Ngày kia thi rồi) (Phong Tông Tín/ 封宗信, 2008) 135Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138 (19) A: Cậu có thể giúp tôi nấu cơm được không? B: Liên nấu nướng ngon lắm đấy. (Cầm Tú Tài, 2007) Ví dụ (18) cho thấy B đã tránh trả lời A bằng hiển ngôn ý phủ định, và sử dụng phương thức chuyển chủ đề để biểu đạt ý “tôi phải ôn thi, không đi thăm ông Lý được”. Trong câu (19) B đã không nói thẳng ra câu từ chối việc nấu cơm của mình, mà lảnh tránh bằng cách chuyển hướng chú ý đến một đối tượng khác. (4) Sử dụng phương thức tỉnh lược, hoặc im lặng Tiếng Hán và tiếng Việt cùng sử dụng phương thức này để diễn đạt ý phủ định. Ngữ cảnh đối đáp cho phép lược bỏ nội dung của câu đã được xác định mà vẫn đảm bảo được nội dung thông tin. Im lặng thường được dùng để diễn tả sự e thẹn, uất ức, nghẹn ngào, chế nhạo hoặc giống mục (3) nêu trên. Ví dụ: (20) 父亲:这次考试,你考得怎么 样?(Bố: Kết quả thi của con lần này thế nào?) 孩子:我 (Con: Con) (Cầm Tú Tài, 2007) Sự im lặng sau đó của người con đã giúp cho người cha đoán ra được: kết quả thi không tốt, người con có ý diễn đạt qua hình thức ý tại ngôn ngoại. Phương thức tỉnh lược còn tạo ra các câu rút gọn đặc biệt được diễn đạt bằng các từ phủ định, làm cho sự đối đáp trong phong cách khẩu ngữ diễn ra nhanh chóng, tiện lợi và tiết kiệm. Ví dụ: (21) (Nó lắc đầu) - Em không sợ. Em làm ra tiền mà ăn. Không đi ăn mày. (Đức bảo nó) - Thì tội gì mà khổ thân. Cứ ở nhà này. - Không. - Thế thì tôi đi với mợ. (Nó sợ hãi) - Không. (Diệp Quang Ban - Ngữ pháp tiếng Việt, 2004) 4.3.2. Sử dụng phương thức suy luận (1) Về khả năng thực hiện hay xảy ra Ví dụ: (22) 甲:你什么时候嫁给他?(A: Bao giờ thì bạn đồng ý lấy anh ta?) 乙:下一辈子吧。(B: Sang kiếp sau nhé) (Tôn Tĩnh/ 孙静, 2012) (23) 甲:让他陪你一起去。(A: Để nó dẫn anh đi) 乙:让他?除非太阳从西边出来。(B: Để nó dẫn ư? Trừ phi mặt trời mọc ở hướng tây nhé) (Tôn Tĩnh/ 孙静, 2012) Trong ví dụ (22) B không đồng ý lấy anh ta, và cũng không muốn nói thẳng điều này ra, nên đã mượn thời gian không thể có được để biểu đạt ý “Không bao giờ có chuyện đồng ý lấy anh ta”. Hình thức câu nói là khẳng định, những thực chất là mang nghĩa phủ định. Trong ví dụ (23) hiển nhiên mặt trời không thể mọc từ hướng Tây được, có được điều kiện này “tôi mới đồng ý cho nó dẫn đi”. Do vậy, “tôi dứt khoát không đồng ý để nó dẫn đi”, hoặc “nó tuyệt đối không thể dẫn tôi đi được”. Trong tiếng Việt cũng có lối diễn “Mò kim đáy biển” là không thể thực hiện nổi. Do đó, việc này dứt khoát không thực hiện nổi. Hoặc sử dụng những ngữ cố định như “Đến mùa quýt”, “Chờ đến tết Công-gô” (Cộng hòa Dân chủ Công-gô là một đất nước ở châu Phi không đón tết hằng năm, mà phải chờ đợi đến 50 năm mới đón tết). Người Việt đã mượn các hình ảnh này để ví với sự việc hay tình huống nào đó quá xa vời, không biết xác định vào thời gian cụ thể nào, vì vậy sẽ rất khó khả thi hoặc không bao giờ có thể diễn ra. Ví dụ: (24) Theo các chuyên gia Âu - Mỹ, việc phát hiện và ngăn chặn sát thủ “sói đơn độc” như mò kim đáy biển. (Báo điện tử Dân trí, 2016) (2) Về đặc điểm nổi bật, khác biệt so với qui luật chung (25) 甲:这支枪是一个重要的破案线 索。(A: Khẩu súng này là đầu mối quan trọng để phá án đấy) 乙:这个城市几乎每个人都有这种 枪。(B: Trong thành phố hầu như người nào cũng có loại súng này) (Cầm Tú Tài, 2007) 136 C.T. Tài / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138 Từ đó có thể suy luận, khẩu súng này không có đặc điểm gì đặc biệt cả, không thể coi là đầu mối dung để phá án được. Đặc điểm chung đã phủ định ý kiến này. Trong tiếng Việt cũng có cách diễn đạt như sau: (26) Ở khoa chúng tôi có tới 4 cô giáo tên là Hà. Em nói đầy đủ tên họ thì tôi mới biết là cô Hà nào chứ. (Ngữ liệu ghi chép trong giao tiếp, 2015) (3) Qua phương thức khuyên giải, răn đe, ngăn chặn, dự báo kết cục xấu (27) 我再等你一会儿,飞机就要飞 了。(Tôi mà đợi bạn thêm lát nữa thì máy bay sẽ bay mất) (Cầm Tú Tài, 2007) (28) (Hai người hàng xóm nói chuyện với nhau): A: Vợ của anh Quang hiền nhỉ! B: Xem lại đi, sư tử Hà Đông đấy! (Siriwong Hongsawan, 2010: 146) Ví dụ (27) sử dụng dự báo đoán định kết cục xấu sẽ xảy ra để truyền đạt hàm ý “Tôi không thể đợi thêm được nữa”. Trong ví dụ (28) B không đồng tình với ý kiến của A, và biểu thị hàm ý phủ định bằng cách khuyên giải A xem xét lại, so sánh liên hệ tới một hình ảnh trái chiều với tính cách ghen tuông, nóng nảy, dữ dằn của người vợ trong văn hóa dân gian Việt Nam mà mọi người đều biết tới. Ngoài ra còn có thể sử dụng nhiều ngữ cố định khác để biểu đạt ý phủ định. Như: “癞蛤蟆想吃 天鹅肉/ con cóc ghẻ muốn ăn thịt thiên nga” (tiếng Hán), tương đương với “Đũa mốc đòi chòi mâm son” (tiếng Việt), qua hình ảnh của mâm son và đũa mốc để ví với sự sai lệch, cách biệt quá xa, không đủ khả năng để làm nổi công việc gì đó. “猴年马月/ tháng ngựa năm khỉ” (tiếng Hán) tương đương với “Chờ đến tết Công-gô” (tiếng Việt), mang nghĩa: không bao giờ có, không bao giờ diễn ra. “ 八字还没一撇/ chữ số 8 còn thiếu một dấu phẩy”: chữ viết của số 8 tiếng Hán vốn có 2 nét viết, còn thiếu một nét phẩy sẽ không hình thành nên con số này được. Ý nghĩa ví von là: còn chưa đầy đủ, chưa xong. “喝西北风/ uống gió tây bắc” (tiếng Hán) tương đương với câu “ăn không khí”, “cạp đất mà ăn” của tiếng Việt, mang nghĩa: chẳng có thứ gì cả;“xưa như trái đất rồi”, mang nghĩa: chẳng có gì mới mẻ nữa, v.v... 5. Một số vấn đề tiếp theo trong nhận diện chiều sâu về phương thức phủ định dụng học tiếng Hán và tiếng Việt So với việc sử dụng các từ ngữ phủ định thông thường, phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt luôn thể hiện sự vi phạm các nguyên tắc và tiêu chí nào đó trong giao tiếp. Chúng trở thành hiện tượng phổ biến được cộng đồng ngôn ngữ mặc nhiên qui ước và chấp thuận. Điều đó cũng phản ánh đặc điểm tri nhận và qui luật biểu đạt ngôn ngữ dân tộc. Phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt là rất phong phú đa dạng, có thể sử dụng trực triếp từ ngữ phủ định, cũng có thể sử dụng phương tiện từ ngữ khác mang hàm nghĩa tiêu cực, có ngữ khí phản vấn, cần suy luận để diễn đạt. Do đó, phủ định dụng học có thể mang lại tính hàm súc trong lời nói, giúp cho phát ngôn ngắn gọn mà chất chứa nhiều nội dung, ý nghĩa, tạo hiệu quả mạnh mẽ, sâu sắc với người nghe. Ở một số ngữ cảnh nhất định còn góp phần đảm bảo thể diện cho người tham gia giao tiếp. Xem xét những nghiên cứu liên quan cho thấy các học giả thường chú ý nhiều hơn tới phương thức phủ định từ vựng. Do đó, thường xuất hiện nhiều nghiên cứu về từ phủ định, cấu trúc phủ định, tiêu điểm phủ định, phạm vi phủ định, ngữ nghĩa phủ định Còn những nghiên cứu chiều sâu về phủ định dụng học thì vẫn còn rất ít. Nội dung nghiên cứu, góc tiếp cận, phương pháp tiến hành, thuật ngữ sử dụng còn có nhiều vấn đề cần tiếp tục làm rõ. Chúng tôi nhận thấy một số vấn đề sau cần tiếp tục được nhận diện về chiều sâu: (1) Nghiên cứu phủ định dụng học còn nhiều nội dung giao thoa và phân tách chưa được rõ ràng, các minh chứng được đưa ra có lúc là câu đơn, có lúc là hội thoại, có lúc là diễn ngôn trong giao tiếp, có lúc là các câu tường thuật, v.v trong khi đó, trong hành 137Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138 chức của ngôn ngữ, diễn ngôn và cặp thoại trong hội thoại cần được chú trọng phân tích để từ đó nhận ra chân trị của phủ định. (2) Nhiều thuật ngữ cần được thống nhất, nhiều khái niệm cần giải thích rõ ràng. Chẳng hạn còn nhiều cách diễn đạt khác nhau về tên gọi: phủ định hàm ý, phủ định siêu ngôn ngữ, phủ định dụng học, phủ định trực tiếp, phủ định gián tiếp, phủ định phi dấu hiệu, phủ định tu từ học Nhiều tên gọi và khái niệm chưa mang tính thống nhất và còn mang nội dung trùng lặp. (3) Nội dung về hàm ý phủ định trong hội thoại chưa được chú trọng nghiên cứu về chiều sâu, chưa được phân loại và làm rõ về phạm vi. (4) Chưa có nhiều nghiên cứu đối chiếu, chỉ ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa tiếng Hán và tiếng Việt trong phương thức phủ định dụng học. (5) Trong dạy học tiếng Hán và tiếng Việt như một ngoại ngữ cần chú ý tận dụng lợi thế các nội dung chuyển di tích cực trong tiếng mẹ đẻ để tìm hiểu các chức năng của phủ định dụng học. (6) Cần chú ý hơn tới nội hàm văn hóa dân tộc, đặc trưng tâm lý của người bản ngữ thể hiện trong các phương thức phủ định dụng học được sử dụng trong giao tiếp. 6. Kết luận Tìm hiểu về phương thức phủ định dụng học trong tiếng Hán và tiếng Việt cho thấy cả hai ngôn ngữ đều sử dụng các phương thức như phản ngữ, cách nói lặp lại, sử dụng lối diễn đạt lảng tránh, chuyển đổi nội dung chủ đề, dùng phương thức tỉnh lược, giữ im lặng, hoặc thông qua cách thức suy luận về thời gian không thể xác định, sự việc không thể thực hiện hay không thể xảy ra, sự vận động trái chiều với qui luật chung, hoặc dự báo về hậu quả tiêu cực có thể xảy ra... Kết quả khảo sát cho thấy về tổng thể, phương thức diễn đạt ý phủ định dụng học trong hai ngôn ngữ Hán – Việt có rất nhiều điểm tương đồng. Tuy nhiên, phân tích chiều sâu cho thấy trong mỗi ngôn ngữ đều có đặc trưng riêng, mang nội dung văn hóa dân tộc đặc thù thể hiện nét khác biệt của mỗi ngôn ngữ. Trên đây mới chỉ là những nội dung đề cập chưa được đầy đủ, mới dừng lại ở mức độ liên hệ từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu có thể góp thêm tài liệu tham khảo trong dạy học, đối chiếu, nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Hán - Việt ở Việt Nam, đồng thời cũng mong muốn tiếp tục được trao đổi cùng các chuyên gia, đồng nghiệp để có được nội dung hoàn chỉnh hơn. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt Diệp Quang Ban (1998). Giáo trình Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. Nguyễn Đức Dân (1996). Logic và tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. Nguyễn Thiện Giáp (2004). Dụng học Việt ngữ. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Siriwong Hongsawan (2010). Các phương tiện thể hiện hành động bác bỏ trong tiếng Thái và tiếng Việt. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Như Ý chủ biên (1996). Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. Trần Chi Mai (2005). Cách biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến bằng các phát ngôn lảng tránh. Tạp chí Ngôn ngữ, 1, 41-50. Cầm Tú Tài (2007). Bàn về ý phủ định trong tiếng Hán và tiếng Việt. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Ngoại ngữ, 23, 155-166. Tiếng Anh Grice, P. H. (1975). Logic and Conversation. In P. Cole, & J. Morgan (eds.), Semantic 3: Speech Acts (pp. 41-58). New York: Academic Press. Leech, G. N. (1983). Principles of Pragmatics. London; New York: Longman Inc. Levinson, S. C. (1983), Pragmatics. Cambridge: Cambridge University Press. Searle, J. R., Kiefer, F., & Bierwisch, M. (1980). Speech Act Theory and Pragmatics. Dordrecht: D. Reidel Publishing Company. Tiếng Trung Quốc 陈平(1996). 英汉否定结构比较. 上海:上海教育出 版社。 封宗信 (2008).现代语言学流派概论. 北京:北京大 学出版社。 138 C.T. Tài / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 127-138 何兆雄(2000).新编语用学概论. 上海:上海教育出版 社。 沈家煊 (1993). 语用否定观察. 中国语文, 5 (1993), 321 – 33。 宋荣超(2010). “语用否定”考证. 长春师范大学 学报,1(2010), 118 – 122。 孙静 (2012). 否定的语用简析. 青年文学家杂志, 2 (2012), 17 – 25。 徐盛恒 (1994). 新格莱斯会话含义理论和含意否 定. 外语教学与研究,4(1994), 30 – 35。 周静 (2003). 汉语中无标记否定表达手段探微. 商 丘师范学院学报,1(2003), 105-107。 农鸿幸 (2009). 汉越语否定表达之比较. 广西民族 大学硕士学位论文。 Nguồn ngữ liệu h t tp s : / / dan t r i . com.vn / the -g io i /mo-k im-day - bien-20160829121224095.htm: đăng nhập 20/ 01/ 2019. đăng nhập 10/ 12/ 2018. A DISCUSSION ON PRAGMATIC NEGATION IN CHINESE AND VIETNAMESE Cam Tu Tai Faculty of Graduate Studies, VNU University of Languages and International Studies, Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: Negation is a phenomenon that often occurs in language communication. In the context of this article, from semantic, pragmatic and contrastive perspectives, we discuss and compare pragmatic negation in Chinese and Vietnamese. The results show that pragmatic negation in Chinese and Vietnamese is expressed through the use of antiphrasis, repetition, avoidant expression, topic change, or by way of ellipsis, silence, or making inference about indefinite time, unpredictable or unlikely events, contrariwise movement with common law, or prediction of negative effects. Overall, there are similarities between the two languages, but there are still some differences due to the characteristics of each language. We hope that the results of the study can be used as a reference for teaching, contrasting, and studying foreign languages and cultures in Vietnam. Keywords: negation, pragmatics, Chinese, Vietnamese
File đính kèm:
- ban_ve_phuong_thuc_phu_dinh_dung_hoc_trong_tieng_han_va_tien.pdf