Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
1.1.1. Khái niệm về kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ (KTNB) nói riêng có lịch sử phát triển lâu đời
trên thế giới. Kiểm toán có lịch sử phát triển vào khoảng hơn 5500 năm trước đây với
những dấu hiệu thể hiện sự kiểm tra đơn giản thông qua việc đánh dấu bên cạnh các con
số ghi nhận các giao dịch trên các vật để ghi chép của con người trong nền văn minh
Mesopotamian cổ đại. Một người ghi nhận giao dịch và một người khác kiểm tra việc
ghi nhận các giao dịch. Sau này, hoạt động kiểm tra này được sử dụng rất nhiều tại Ai
Cập cổ đại, Ba Tư và La Mã cổ đại. Ở La Mã cổ đại, công việc kiểm tra được giao cho
các "auditus" (tiếng Latin có nghĩa là nghe). Những người được kiểm tra gọi là các
"quaestors" (có nghĩa là những người được kiểm tra). Kiểm toán là hoạt động xác minh
và bày tỏ ý kiến về đối tượng được kiểm toán do các kiểm toán viên (KTV) có trình độ
nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. KTNB là một
trong ba loại hình kiểm toán khi phân loại theo bộ máy tổ chức và chủ thể thực hiện.
Chính vì vậy, xu hướng phát triển và bản chất của KTNB mang những đặc trưng chung
của kiểm toán.
Ở giai đoạn phát triển ban đầu của KTNB, có thể xem xét đến khái niệm này trong phần
Giải thích Thuật ngữ trong Chuẩn mực Kiểm toán của Liên đoàn Kế toán quốc tế
(IFAC), khái niệm về KTNB được đưa ra như sau : “KTNB là một hoạt động đánh giá
được lập ra trong doanh nghiệp như là một dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng
kiểm tra, đánh giá và giám sát tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm
soát nội bộ”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
m và nhược điểm của loại tiếp cận theo khu vực địa lý này được phân tích rõ qua hai mô hình trên. Đổi lại, đây là cách tiếp cận được đánh giá là tốt nhất và là loại tiếp cận được sử dụng nhiều nhất trong thực tế. Tổ chức KTNB sử dụng nhân viên kiểm toán ở văn phòng điều hành trung tâm Theo cách tiếp cận này, KTNB có thể được tổ chức theo một trong ba mô hình trên nhưng được kết hợp với một vài tổ chức ở văn phòng điều hành trung tâm của tổng công ty hay tập đoàn. Cách thức này chỉ có thể được thực hiện khi mô hình tập đoàn được tổ chức theo mô hình có tổ chức văn phòng điều hành tại công ty mẹ của tập đoàn hoặc tại tổng công ty. Cách thức tổ chức này sẽ đòi hỏi có sự hỗ trợ Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ 16 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 về mặt hành chính tại văn phòng điều hành trung tâm. Có thể nhận thấy cách thức tổ chức này theo xu hướng tập trung nhiều hơn là xu hướng phân tán. Mô hình linh hoạt, sử dụng các nhân viên kiểm toán đặc biệt hoặc các nhân viên kiểm toán không chính thức Đây có thể coi là mô hình “hoạt động linh hoạt“ của KTNB. Đôi khi trong các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp có những phần việc liên quan đến chuyên môn đặc biệt. Các KTV không phải lúc nào cũng am hiểu tường tận về tất cả các lĩnh vực. Do đó, bộ phận KTNB trên văn phòng trung tâm có thể có những chuyên gia thực hiện những lĩnh vực đặc biệt. Họ có thể là các chuyên gia máy tính, các chuyên gia kỹ thuật và không nhất thiết phải là các KTV. Trong một số trường hợp, những người này không phải là nhân viên chính thức của đơn vị mà có thể làm theo từng hợp đồng riêng biệt. Khi sử dụng những nhân viên này, cần có sự đảm bảo hợp lý về trình độ chuyên môn và tính độc lập của họ. 1.3.2. Kiểm toán viên nội bộ Kiểm toán viên nội bộ là những người thực hiện nhiệm vụ kiểm toán trong các doanh nghiệp. Kiểm toán viên nội bộ có thể là các kế toán viên giỏi, các kỹ thuật viên, nhà quản lý có kinh nghiệm. Họ không nhất thiết phải có chứng chỉ hành nghề kiểm toán như kiểm toán viên độc lập nhưng lại có những đòi hỏi riêng biệt so với các loại hình kiểm toán khác: KTVNB là những cán bộ làm công việc chuyên môn nên có những nhu cầu đặc biệt liên quan đến chuyên môn của họ. Điều đó đặt ra yêu cầu cần ít sự chỉ đạo trực tiếp mà cần nhiều sự định hướng hơn. KTVNB được mọi người trong tổ chức biết đến nhiều hơn những người khác một cách tương đối, vì thế cần thấy rằng họ có trách nhiệm đặc biệt phải hành động như một hình mẫu và một chuẩn mực trong quan hệ nhân sự. Trong quan hệ nội bộ phòng ban, KTVNB cần nhận thức rằng, anh ta có khó khăn nội thân do sự định kiến. Những bộ phận, đơn vị thành viên luôn cho rằng kiểm toán nội bộ kiểm soát hoạt động của mình. Mục tiêu thường xuyên của KTVNB là thay đổi định kiến đó trong phạm vi cho phép của trách nhiệm mà anh ta được trực tiếp giao phó theo hướng kiểm toán nội bộ là sự trợ giúp hoạt động đối với đơn vị được kiểm toán. Nhân viên trong các phòng ban khác cần luôn được bồi dưỡng thích hợp để nâng cao nhận thức về công việc KTNB và KTVNB. Điều đó làm cho KTVNB có được đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ nhận được sự hậu thuẫn khi tiếp xúc với người được kiểm toán. Phạm vi công việc của KTVNB không được hạn chế vì bất kỳ lý do gì. KTVNB phải được toàn quyền tiếp cận sổ sách kế toán và các sổ sách có liên quan. Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ ACC506_Bai 1_v1.0010110228 17 KTVNB phải luôn đảm bảo được tính độc lập trong quá trình thực hành kiểm toán. Tính độc lập của kiểm toán đòi hỏi kiểm toán viên không được thực hiện kiểm toán bất cứ lĩnh vực nào mà trước đây kiểm toán giữ trách nhiệm quản lý. 1.3.3. Tổ chức hiệp hội kiểm toán viên nội bộ Năm 1941, Viện Kiểm toán viên nội bộ - IIA (Institute of Internal Auditors) được thành lập tại New York làm cơ sở cho việc hình thành các tổ chức hiệp hội kiểm toán viên nội bộ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hiệp hội kiểm toán viên nội bộ đầu tiên được công nhận lại xuất hiện ở Pháp năm 1965. Hiệp hội này sau đó trở thành Viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm toán viên nội bộ vào năm 1973 (IFAC). Theo đó, hiệp hội kiểm toán viên nội bộ tại nhiều nước cũng được hình thành và phát triển như ở Anh, Úc, Canada 1.3.4. Chuẩn mực thực hành cho kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp Viện Kiểm toán viên nội bộ của Mỹ đã đưa ra các chuẩn mực thực hành cho kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp. Chuẩn mực này được rất nhiều nước áp dụng trong quá trình thực hành kiểm toán nội bộ. Chuẩn mực này là tiêu chuẩn để thực hành và đánh giá hoạt động của kiểm toán nội bộ, nó không chỉ là hành lang pháp lý mà còn là thước đo chất lượng công việc của kiểm toán nội bộ. Các chuẩn mực này gồm 5 chuẩn mực chung: Nguyên tắc độc lập; Trình độ chuyên môn bộ phận kiểm toán nội bộ; Phạm vi công việc; Quá trình thực hiện công việc kiểm toán và Quản lý hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ. Trong mỗi chuẩn mực chung có các chuẩn mực cụ thể. Chuẩn mực về nguyên tắc độc lập Bao gồm hai chuẩn mực cụ thể: Cơ cấu tổ chức và Thái độ khách quan. Chuẩn mực về trình độ chuyên môn bộ phận kiểm toán nội bộ Bao gồm tám chuẩn mực: Nhân viên; Kiến thức, kỹ năng và kỷ luật của phòng kiểm toán nội bộ; Giám sát kiểm toán viên nội bộ; Tuân thủ với các chuẩn mực đạo đức; Kiến thức, kỹ năng và kỷ luật của kiểm toán viên nội bộ; Quan hệ cá nhân và giao tiếp; Đào tạo liên tục; Sự chuyên tâm nghề nghiệp. Chuẩn mực phạm vi công việc Bao gồm năm chuẩn mực cụ thể: Mức độ tin cậy và trung thực của thông tin; Tuân thủ chính sách, kế hoạch, thủ tục, luật pháp và quy định; Bảo vệ tài sản; Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực; Hoàn thành các mục tiêu và mục đích được thiết lập đối với các nghiệp vụ kế hoạch cụ thể. Chuẩn mực quá trình thực hiện công việc kiểm toán Bao gồm bốn chuẩn mực cụ thể: Lập kế hoạch kiểm toán; Kiểm tra đánh giá thông tin; Thuyết minh kết quả thu được; Các biện pháp thực hiện tiếp theo. Chuẩn mực về quản lý hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ Bao gồm sáu chuẩn mực cụ thể: Mục đích, quyền hạn và trách nhiệm; Lập kế hoạch thực hiện; Chính sách và thủ tục; Quản lý và phát triển nguồn nhân lực; Các kiểm toán viên độc lập; Đảm bảo chất lượng kiểm toán. Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ 18 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 1.4. Lịch sử phát triển của kiểm toán nội bộ 1.4.1. Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ trên thế giới Hoạt động KTNB được hình thành và phát triển trước tiên ở Mỹ, sau này mới phát triển sang các khu vực khác trên thế giới. KTNB xuất hiện từ khá sớm, một số trường hợp của KTNB đã được thực hiện từ trước năm 1900. Ban đầu trong doanh nghiệp KTNB mới chỉ dừng ở mức hoạt động tự kiểm tra của các cá nhân với chính hoạt động của mình. Sau đó, hoạt động KTNB được mở rộng hơn nữa với việc kiểm tra đánh giá hoạt động của một người khác có liên quan. Trong một doanh nghiệp dù có quy mô nhỏ, người chủ sở hữu hay người quản lý cùng với tất cả nhân viên đều đang thực hiện việc kiểm tra đánh giá lại các công việc đã hoàn thành. Tính đa dạng cùng mức độ phức tạp của các nghiệp vụ ngày càng tăng dẫn đến có rất nhiều khó khăn cho nhà quản lý khi trực tiếp kiểm tra độ tin cậy của thông tin, mức độ tuân thủ pháp luật và quy định trong thực hiện nghiệp vụ, tính hiệu quả của các hoạt động. Các doanh nghiệp ngành đường sắt của Mỹ được coi là một trong những doanh nghiệp tiên phong trong áp dụng KTNB và KTNB được mở rộng sang các lĩnh vực khác của quản lý vào những năm 50 của thế kỷ XX. Các nhà quản lý cao cấp của các doanh nghiệp này cần có sự bảo đảm là các nhà ga trên toàn liên bang đều phản ánh đúng thu chi. Chỉ có KTVNB mới có thể làm được điều này vì họ hiểu rõ cơ chế thu chi của ngành đường sắt trong khi các KTV bên ngoài không thể thực hiện được một cách đầy đủ vì họ tiến hành kiểm toán cho từng đơn vị riêng lẻ. KTNB xuất hiện đóng vai trò là sự trợ giúp trong kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả hoạt động, đánh giá tính hiệu lực của các quy định trong doanh nghiệp. Trong tất cả các hoạt động KTNB kể cả ở giai đoạn đầu tiên có thể thấy rõ KTNB được thực hiện với tư cách là một chức năng của quản lý và phục vụ cho yêu cầu quản lý. Trong giai đoạn đầu mới xuất hiện, KTNB chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tài chính kế toán với chức năng quan trọng nhất là phát hiện các sai phạm. Với chức năng này, KTVNB đóng vai trò là người giám sát hay kiểm tra viên về tài chính. Trên phạm vi rộng hơn, KTNB được sử dụng chủ yếu như một hoạt động hỗ trợ của ngoại kiểm nhằm giảm bớt công việc và chi phí cho hoạt động ngoại kiểm. Như vậy, quan điểm về KTNB giai đoạn này tương đối đơn giản, KTNB được coi là hoạt động nhằm thực hiện chức năng của kiểm tra kế toán. Kiểm tra kế toán là một thuộc tính cố hữu, một chức năng của kế toán. Do đó, quan điểm này không còn phù hợp khi yêu cầu quản lý thay đổi và làm mất đi tính độc lập của KTNB. Môi trường kinh doanh thay đổi, các hoạt động càng phức tạp và đa dạng dẫn đến đòi hỏi phải đánh giá từng loại hoạt động trên nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài việc đánh giá đến tính trung thực và hợp pháp của thông tin, xem xét và phát hiện các sai phạm, Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ ACC506_Bai 1_v1.0010110228 19 nhà quản lý cần quan tâm đến tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực của từng hoạt động, tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện hoạt động. Điều này dẫn đến xu hướng chuyển hoạt động của KTNB hướng đến hoạt động quản lý nhiều hơn đặc biệt là hoạt động KTNB đã hướng đến cả các lĩnh vực phi tài chính. Năm 1941, Viện Kiểm toán viên nội bộ (Institute of Internal Auditor - IIA) được thành lập đánh dấu một bước phát triển của hoạt động KTNB, đây được coi là sự xác lập chính thức hoạt động KTNB. Tuy nhiên việc đưa ra định nghĩa về KTNB làm cơ sở phát triển hoạt động KTNB có độ trễ tương đối. Mãi đến tháng 6 năm 1978 Chuẩn mực Thực hành Kiểm toán chuyên nghiệp cho KTVNB (Standard of Professional Practice of Internal Auditing) mới được IIA ban hành. 1.4.2. Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam Ngày 12/11/1996 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 73-TC/TCDN hướng dẫn lập, công bố công khai và kiểm tra báo cáo tài chính, kiểm tra kế toán doanh nghiệp nhà nước. Thông tư này quy định "Báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán và có xác nhận đã được kiểm toán của KTNB hoặc kiểm toán độc lập". Theo hướng dẫn trên, các tổng công ty nhà nước đã thực hiện kiểm tra kế toán và thuê kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán. Hoạt động tự kiểm tra kế toán trong nội bộ tổng công ty chỉ mới là hình thức sơ khai ban đầu của KTNB. Một số tổng công ty đã thực hiện việc kiểm tra này trên diện rộng với hầu hết các đơn vị thành viên như Tổng công ty Than Việt Nam (nay là Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam), Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (nay là Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam). Nhằm tăng cường quản lý các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài chính đã ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng từ ngày 01/01/1998 theo Quyết định số 832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997. Đây được coi là mốc thời gian đánh dấu sự xuất hiện chính thức về mặt pháp lý của kiểm toán nội bộ tại Việt Nam. Sau đó, Bộ Tài chính ban hành thêm Thông tư 52/1998-TT-BTC hướng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp nhà nước và sau này Thông tư này được thay thế bằng Thông tư 171/1998-TT-BTC ngày 22/12/1998. Theo hướng dẫn trong các văn bản pháp lý trên, nhiều công ty, tổng công ty nhà nước đã hình thành bộ phận kiểm toán nội bộ. Sau một thời gian đi vào hoạt động, các tổng công ty tiếp tục hoàn thiện văn bản về tổ chức và hướng dẫn nghiệp vụ cho KTNB bằng hệ thống Quy chế kiểm toán nội bộ. Thực tế hoạt động của KTNB tại các tổng công ty, công ty nhà nước cho thấy, mặc dù KTNB đã được hình thành và phát triển nhưng mô hình tổ chức và bộ máy hoạt động rất khác nhau. Sự đa dạng trong loại hình hoạt động thể hiện tính tự nguyện trong tổ chức KTNB nhiều hơn. Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ 20 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 TÓM LƯỢC CUỐI BÀI Tóm lại, kiểm toán nội bộ đang là một xu hướng phát triển của kiểm toán hiện đại cả trên thế giới và Việt Nam. Mặc dù vậy, kiểm toán nội bộ ở Việt Nam cũng còn nhiều điểm cần hoàn thiện để hướng tới phát triển kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp như hệ thống pháp lý, nâng cao chất lượng và số lượng nhân sự cho kiểm toán nội bộ. Trong bài mở đầu của môn học này, chúng ta đã xem xét các khái niệm về kiểm toán nội bộ từ đó hiểu được bản chất của kiểm toán nội bộ, các đặc trưng cơ bản của kiểm toán nội bộ, nội dung của kiểm toán nội bộ, tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ theo các phương thức khác nhau và lịch sử hình thành và phát triển kiểm toán nội bộ. Bài học đã cung cấp cho các bạn những kiến thức tổng quan về kiểm toán nội bộ để từ đó giúp bạn có cơ sở nghiên cứu và xem xét mối liên hệ giữa kiểm toán nội bộ với các loại hình kiểm toán khác trong hệ thống kiểm toán, đánh giá ban đầu về việc tổ chức kiểm toán nội bộ hiện nay ở Việt Nam. Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ ACC506_Bai 1_v1.0010110228 21 CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Nêu bản chất của kiểm toán nội bộ. 2. Nêu các đặc trưng cơ bản của kiểm toán nội bộ. 3. Nêu các yêu cầu cơ bản của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. 4. Nêu các cách thức tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. 5. Sơ lược về trình tự phát triển của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam. Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ 22 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 BÀI TẬP Bài 1.1: Ông An là Giám đốc Công ty thương mại ACCI. Công ty của ông chuyên kinh doanh thiết bị lọc nước. Công ty nhập khẩu thiết bị này từ Nhật và xuất bán ở Việt Nam. Công ty ACCI hiện nay đã có các cửa hàng lớn ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Doanh thu của công ty trong 3 năm trở lại đây tăng lên rất nhanh. Cổ đông của công ty đang muốn chuyển công ty ACCI thành công ty mẹ và các cửa hàng thành công ty con để tăng tính độc lập và tự chủ trong kinh doanh cho các bộ phận ở từng khu vực. Ông An cũng đang có kế hoạch kiện toàn lại bộ máy tổ chức của công ty theo yêu cầu của các cổ đông. Ông An cũng là cổ đông của công ty với số vốn góp là 20%. Ông đang rất băn khoăn về việc có nên tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại công ty của mình hay không. Nếu tổ chức thì nên tổ chức theo mô hình nào? Bà Hà – một người có chứng chỉ kiểm toán viên hành nghề – hiện đang là giám đốc tài chính của công ty ACCI. Hiện nay, bộ phận kế toán của công ty đang có 6 người. Ông An đang muốn trao đổi với bà Hà về những vấn đề của công ty. Yêu cầu: 1. Nếu bạn ở vị trí của bà Hà – giám đốc tài chính của công ty, thì bạn có tổ chức kiểm toán nội bộ tại công ty không? Tại sao? 2. Nếu tổ chức kiểm toán nội bộ thì công ty nên tổ chức theo mô hình nào? Tại sao? 3. Nếu công ty tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ, Bà Hà có nên là người phụ trách bộ phận kế toán và kiểm toán không? Tại sao?
File đính kèm:
- bai_giang_kiem_toan_noi_bo_phan_i_kiem_toan_noi_bo_trong_he.pdf