Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ

1.1.1. Khái niệm về kiểm toán nội bộ

Kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ (KTNB) nói riêng có lịch sử phát triển lâu đời

trên thế giới. Kiểm toán có lịch sử phát triển vào khoảng hơn 5500 năm trước đây với

những dấu hiệu thể hiện sự kiểm tra đơn giản thông qua việc đánh dấu bên cạnh các con

số ghi nhận các giao dịch trên các vật để ghi chép của con người trong nền văn minh

Mesopotamian cổ đại. Một người ghi nhận giao dịch và một người khác kiểm tra việc

ghi nhận các giao dịch. Sau này, hoạt động kiểm tra này được sử dụng rất nhiều tại Ai

Cập cổ đại, Ba Tư và La Mã cổ đại. Ở La Mã cổ đại, công việc kiểm tra được giao cho

các "auditus" (tiếng Latin có nghĩa là nghe). Những người được kiểm tra gọi là các

"quaestors" (có nghĩa là những người được kiểm tra). Kiểm toán là hoạt động xác minh

và bày tỏ ý kiến về đối tượng được kiểm toán do các kiểm toán viên (KTV) có trình độ

nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. KTNB là một

trong ba loại hình kiểm toán khi phân loại theo bộ máy tổ chức và chủ thể thực hiện.

Chính vì vậy, xu hướng phát triển và bản chất của KTNB mang những đặc trưng chung

của kiểm toán.

Ở giai đoạn phát triển ban đầu của KTNB, có thể xem xét đến khái niệm này trong phần

Giải thích Thuật ngữ trong Chuẩn mực Kiểm toán của Liên đoàn Kế toán quốc tế

(IFAC), khái niệm về KTNB được đưa ra như sau : “KTNB là một hoạt động đánh giá

được lập ra trong doanh nghiệp như là một dịch vụ cho doanh nghiệp đó, có chức năng

kiểm tra, đánh giá và giám sát tính phù hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm

soát nội bộ”.

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 1

Trang 1

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 2

Trang 2

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 3

Trang 3

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 4

Trang 4

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 5

Trang 5

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 6

Trang 6

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 7

Trang 7

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 8

Trang 8

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 9

Trang 9

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 22 trang xuanhieu 19800
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ

Bài giảng Kiểm toán nội bộ - Phần I: Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm toán - Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
m và nhược điểm của loại tiếp cận theo khu vực địa lý này được phân tích 
rõ qua hai mô hình trên. Đổi lại, đây là cách tiếp cận được đánh giá là tốt nhất và 
là loại tiếp cận được sử dụng nhiều nhất trong thực tế. 
 Tổ chức KTNB sử dụng nhân viên kiểm toán ở văn phòng điều hành trung tâm 
Theo cách tiếp cận này, KTNB có thể được tổ chức theo một trong ba mô hình trên 
nhưng được kết hợp với một vài tổ chức ở văn phòng điều hành trung tâm của tổng 
công ty hay tập đoàn. Cách thức này chỉ có thể được thực hiện khi mô hình 
tập đoàn được tổ chức theo mô hình có tổ chức văn phòng điều hành tại công ty mẹ 
của tập đoàn hoặc tại tổng công ty. Cách thức tổ chức này sẽ đòi hỏi có sự hỗ trợ 
 Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
16 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 
về mặt hành chính tại văn phòng điều hành trung tâm. Có thể nhận thấy cách thức 
tổ chức này theo xu hướng tập trung nhiều hơn là xu hướng phân tán. 
 Mô hình linh hoạt, sử dụng các nhân viên kiểm toán đặc biệt hoặc các nhân 
viên kiểm toán không chính thức 
Đây có thể coi là mô hình “hoạt động linh hoạt“ 
của KTNB. Đôi khi trong các hoạt động hàng ngày 
của doanh nghiệp có những phần việc liên quan 
đến chuyên môn đặc biệt. Các KTV không phải lúc 
nào cũng am hiểu tường tận về tất cả các lĩnh vực. 
Do đó, bộ phận KTNB trên văn phòng trung tâm có 
thể có những chuyên gia thực hiện những lĩnh vực 
đặc biệt. Họ có thể là các chuyên gia máy tính, các chuyên gia kỹ thuật và không 
nhất thiết phải là các KTV. Trong một số trường hợp, những người này không phải 
là nhân viên chính thức của đơn vị mà có thể làm theo từng hợp đồng riêng biệt. 
Khi sử dụng những nhân viên này, cần có sự đảm bảo hợp lý về trình độ chuyên 
môn và tính độc lập của họ. 
1.3.2. Kiểm toán viên nội bộ 
Kiểm toán viên nội bộ là những người thực hiện nhiệm vụ kiểm toán trong các doanh 
nghiệp. Kiểm toán viên nội bộ có thể là các kế toán viên giỏi, các kỹ thuật viên, nhà 
quản lý có kinh nghiệm. Họ không nhất thiết phải có chứng chỉ hành nghề kiểm toán 
như kiểm toán viên độc lập nhưng lại có những đòi hỏi riêng biệt so với các loại hình 
kiểm toán khác: 
 KTVNB là những cán bộ làm công việc chuyên môn nên có những nhu cầu đặc 
biệt liên quan đến chuyên môn của họ. Điều đó đặt ra yêu cầu cần ít sự chỉ đạo 
trực tiếp mà cần nhiều sự định hướng hơn. 
 KTVNB được mọi người trong tổ chức biết đến nhiều hơn những người khác một 
cách tương đối, vì thế cần thấy rằng họ có trách nhiệm đặc biệt phải hành động 
như một hình mẫu và một chuẩn mực trong quan hệ nhân sự. 
 Trong quan hệ nội bộ phòng ban, KTVNB cần 
nhận thức rằng, anh ta có khó khăn nội thân do sự 
định kiến. Những bộ phận, đơn vị thành viên luôn 
cho rằng kiểm toán nội bộ kiểm soát hoạt động của 
mình. Mục tiêu thường xuyên của KTVNB là thay 
đổi định kiến đó trong phạm vi cho phép của trách 
nhiệm mà anh ta được trực tiếp giao phó theo 
hướng kiểm toán nội bộ là sự trợ giúp hoạt động đối với đơn vị được kiểm toán. 
 Nhân viên trong các phòng ban khác cần luôn được bồi dưỡng thích hợp để nâng 
cao nhận thức về công việc KTNB và KTVNB. Điều đó làm cho KTVNB có được 
đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ nhận được sự hậu thuẫn khi tiếp xúc với người được 
kiểm toán. 
 Phạm vi công việc của KTVNB không được hạn chế vì bất kỳ lý do gì. KTVNB 
phải được toàn quyền tiếp cận sổ sách kế toán và các sổ sách có liên quan. 
 Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
ACC506_Bai 1_v1.0010110228 17 
 KTVNB phải luôn đảm bảo được tính độc lập trong quá trình thực hành kiểm toán. 
Tính độc lập của kiểm toán đòi hỏi kiểm toán viên không được thực hiện kiểm toán 
bất cứ lĩnh vực nào mà trước đây kiểm toán giữ trách nhiệm quản lý. 
1.3.3. Tổ chức hiệp hội kiểm toán viên nội bộ 
Năm 1941, Viện Kiểm toán viên nội bộ - IIA (Institute 
of Internal Auditors) được thành lập tại New York làm 
cơ sở cho việc hình thành các tổ chức hiệp hội kiểm 
toán viên nội bộ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hiệp hội 
kiểm toán viên nội bộ đầu tiên được công nhận lại xuất 
hiện ở Pháp năm 1965. Hiệp hội này sau đó trở thành 
Viện nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm toán viên 
nội bộ vào năm 1973 (IFAC). Theo đó, hiệp hội kiểm 
toán viên nội bộ tại nhiều nước cũng được hình thành và phát triển như ở Anh, 
Úc, Canada 
1.3.4. Chuẩn mực thực hành cho kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp 
Viện Kiểm toán viên nội bộ của Mỹ đã đưa ra các chuẩn mực thực hành cho kiểm toán 
viên nội bộ chuyên nghiệp. Chuẩn mực này được rất nhiều nước áp dụng trong quá 
trình thực hành kiểm toán nội bộ. Chuẩn mực này là tiêu chuẩn để thực hành và đánh 
giá hoạt động của kiểm toán nội bộ, nó không chỉ là hành lang pháp lý mà còn là 
thước đo chất lượng công việc của kiểm toán nội bộ. Các chuẩn mực này gồm 5 chuẩn 
mực chung: Nguyên tắc độc lập; Trình độ chuyên môn bộ phận kiểm toán nội bộ; 
Phạm vi công việc; Quá trình thực hiện công việc kiểm toán và Quản lý hoạt động của 
phòng kiểm toán nội bộ. Trong mỗi chuẩn mực chung có các chuẩn mực cụ thể. 
 Chuẩn mực về nguyên tắc độc lập 
Bao gồm hai chuẩn mực cụ thể: Cơ cấu tổ chức và Thái độ khách quan. 
 Chuẩn mực về trình độ chuyên môn bộ phận kiểm toán nội bộ 
Bao gồm tám chuẩn mực: Nhân viên; Kiến thức, kỹ năng và kỷ luật của phòng 
kiểm toán nội bộ; Giám sát kiểm toán viên nội bộ; Tuân thủ với các chuẩn mực 
đạo đức; Kiến thức, kỹ năng và kỷ luật của kiểm toán viên nội bộ; Quan hệ cá 
nhân và giao tiếp; Đào tạo liên tục; Sự chuyên tâm nghề nghiệp. 
 Chuẩn mực phạm vi công việc 
Bao gồm năm chuẩn mực cụ thể: Mức độ tin cậy và trung thực của thông tin; Tuân 
thủ chính sách, kế hoạch, thủ tục, luật pháp và quy định; Bảo vệ tài sản; Sử dụng 
tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực; Hoàn thành các mục tiêu và mục đích được 
thiết lập đối với các nghiệp vụ kế hoạch cụ thể. 
 Chuẩn mực quá trình thực hiện công việc kiểm toán 
Bao gồm bốn chuẩn mực cụ thể: Lập kế hoạch kiểm toán; Kiểm tra đánh giá thông 
tin; Thuyết minh kết quả thu được; Các biện pháp thực hiện tiếp theo. 
 Chuẩn mực về quản lý hoạt động của phòng kiểm toán nội bộ 
Bao gồm sáu chuẩn mực cụ thể: Mục đích, quyền hạn và trách nhiệm; Lập kế 
hoạch thực hiện; Chính sách và thủ tục; Quản lý và phát triển nguồn nhân lực; Các 
kiểm toán viên độc lập; Đảm bảo chất lượng kiểm toán. 
 Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
18 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 
1.4. Lịch sử phát triển của kiểm toán nội bộ 
1.4.1. Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ trên thế giới 
Hoạt động KTNB được hình thành và phát triển trước tiên ở Mỹ, sau này mới phát 
triển sang các khu vực khác trên thế giới. 
KTNB xuất hiện từ khá sớm, một số trường hợp của 
KTNB đã được thực hiện từ trước năm 1900. Ban đầu 
trong doanh nghiệp KTNB mới chỉ dừng ở mức hoạt 
động tự kiểm tra của các cá nhân với chính hoạt động 
của mình. Sau đó, hoạt động KTNB được mở rộng hơn 
nữa với việc kiểm tra đánh giá hoạt động của một 
người khác có liên quan. 
Trong một doanh nghiệp dù có quy mô nhỏ, người chủ sở hữu hay người quản lý cùng 
với tất cả nhân viên đều đang thực hiện việc kiểm tra đánh giá lại các công việc đã 
hoàn thành. Tính đa dạng cùng mức độ phức tạp của các nghiệp vụ ngày càng tăng 
dẫn đến có rất nhiều khó khăn cho nhà quản lý khi trực tiếp kiểm tra độ tin cậy của 
thông tin, mức độ tuân thủ pháp luật và quy định trong thực hiện nghiệp vụ, tính hiệu 
quả của các hoạt động. 
Các doanh nghiệp ngành đường sắt của Mỹ được coi là một trong những doanh nghiệp 
tiên phong trong áp dụng KTNB và KTNB được mở rộng sang các lĩnh vực khác của 
quản lý vào những năm 50 của thế kỷ XX. Các nhà quản lý cao cấp của các doanh 
nghiệp này cần có sự bảo đảm là các nhà ga trên toàn liên bang đều phản ánh đúng thu 
chi. Chỉ có KTVNB mới có thể làm được điều này vì họ hiểu rõ cơ chế thu chi của 
ngành đường sắt trong khi các KTV bên ngoài không thể thực hiện được một cách đầy 
đủ vì họ tiến hành kiểm toán cho từng đơn vị riêng lẻ. KTNB xuất hiện đóng vai trò là 
sự trợ giúp trong kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả hoạt động, đánh giá tính hiệu lực của 
các quy định trong doanh nghiệp. Trong tất cả các hoạt động KTNB kể cả ở giai đoạn 
đầu tiên có thể thấy rõ KTNB được thực hiện với tư cách là một chức năng của quản 
lý và phục vụ cho yêu cầu quản lý. 
Trong giai đoạn đầu mới xuất hiện, KTNB chủ yếu tập 
trung vào lĩnh vực tài chính kế toán với chức năng 
quan trọng nhất là phát hiện các sai phạm. Với chức 
năng này, KTVNB đóng vai trò là người giám sát hay 
kiểm tra viên về tài chính. Trên phạm vi rộng hơn, 
KTNB được sử dụng chủ yếu như một hoạt động hỗ 
trợ của ngoại kiểm nhằm giảm bớt công việc và chi phí 
cho hoạt động ngoại kiểm. Như vậy, quan điểm về KTNB giai đoạn này tương đối 
đơn giản, KTNB được coi là hoạt động nhằm thực hiện chức năng của kiểm tra kế 
toán. Kiểm tra kế toán là một thuộc tính cố hữu, một chức năng của kế toán. Do đó, 
quan điểm này không còn phù hợp khi yêu cầu quản lý thay đổi và làm mất đi tính độc 
lập của KTNB. 
Môi trường kinh doanh thay đổi, các hoạt động càng phức tạp và đa dạng dẫn đến đòi 
hỏi phải đánh giá từng loại hoạt động trên nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài việc đánh 
giá đến tính trung thực và hợp pháp của thông tin, xem xét và phát hiện các sai phạm, 
 Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
ACC506_Bai 1_v1.0010110228 19 
nhà quản lý cần quan tâm đến tính kinh tế, tính hiệu 
quả, hiệu lực của từng hoạt động, tìm kiếm các giải 
pháp hoàn thiện hoạt động. Điều này dẫn đến xu hướng 
chuyển hoạt động của KTNB hướng đến hoạt động 
quản lý nhiều hơn đặc biệt là hoạt động KTNB đã 
hướng đến cả các lĩnh vực phi tài chính. Năm 1941, 
Viện Kiểm toán viên nội bộ (Institute of Internal Auditor - IIA) được thành lập đánh 
dấu một bước phát triển của hoạt động KTNB, đây được coi là sự xác lập chính thức 
hoạt động KTNB. Tuy nhiên việc đưa ra định nghĩa về KTNB làm cơ sở phát triển 
hoạt động KTNB có độ trễ tương đối. Mãi đến tháng 6 năm 1978 Chuẩn mực Thực 
hành Kiểm toán chuyên nghiệp cho KTVNB (Standard of Professional Practice of 
Internal Auditing) mới được IIA ban hành. 
1.4.2. Sự hình thành và phát triển của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam 
Ngày 12/11/1996 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 73-TC/TCDN hướng dẫn lập, công 
bố công khai và kiểm tra báo cáo tài chính, kiểm tra kế toán doanh nghiệp nhà nước. 
Thông tư này quy định "Báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán và 
có xác nhận đã được kiểm toán của KTNB hoặc kiểm toán độc lập". Theo hướng dẫn 
trên, các tổng công ty nhà nước đã thực hiện kiểm tra kế toán và thuê kiểm toán độc 
lập thực hiện kiểm toán. Hoạt động tự kiểm tra kế toán 
trong nội bộ tổng công ty chỉ mới là hình thức sơ khai 
ban đầu của KTNB. Một số tổng công ty đã thực hiện 
việc kiểm tra này trên diện rộng với hầu hết các đơn vị 
thành viên như Tổng công ty Than Việt Nam (nay là 
Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam), Tổng công 
ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (nay là Tập đoàn 
Bưu chính viễn thông Việt Nam). 
Nhằm tăng cường quản lý các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, Bộ Tài chính đã 
ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ áp dụng từ ngày 01/01/1998 theo Quyết định số 
832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997. Đây được coi là mốc thời gian đánh dấu sự xuất 
hiện chính thức về mặt pháp lý của kiểm toán nội bộ tại Việt Nam. Sau đó, Bộ Tài chính 
ban hành thêm Thông tư 52/1998-TT-BTC hướng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ 
tại các doanh nghiệp nhà nước và sau này Thông tư này được thay thế bằng Thông tư 
171/1998-TT-BTC ngày 22/12/1998. Theo hướng dẫn trong các văn bản pháp lý trên, 
nhiều công ty, tổng công ty nhà nước đã hình thành bộ phận kiểm toán nội bộ. Sau một 
thời gian đi vào hoạt động, các tổng công ty tiếp tục hoàn thiện văn bản về tổ chức và 
hướng dẫn nghiệp vụ cho KTNB bằng hệ thống Quy chế kiểm toán nội bộ. 
Thực tế hoạt động của KTNB tại các tổng công ty, công ty nhà nước cho thấy, mặc dù 
KTNB đã được hình thành và phát triển nhưng mô hình tổ chức và bộ máy hoạt động 
rất khác nhau. Sự đa dạng trong loại hình hoạt động thể hiện tính tự nguyện trong tổ 
chức KTNB nhiều hơn. 
 Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
20 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI 
Tóm lại, kiểm toán nội bộ đang là một xu hướng phát triển của kiểm toán hiện đại cả trên thế 
giới và Việt Nam. Mặc dù vậy, kiểm toán nội bộ ở Việt Nam cũng còn nhiều điểm cần hoàn 
thiện để hướng tới phát triển kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp như hệ thống pháp lý, nâng cao 
chất lượng và số lượng nhân sự cho kiểm toán nội bộ. 
Trong bài mở đầu của môn học này, chúng ta đã xem xét các khái niệm về kiểm toán nội bộ từ 
đó hiểu được bản chất của kiểm toán nội bộ, các đặc trưng cơ bản của kiểm toán nội bộ, nội dung 
của kiểm toán nội bộ, tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ theo các phương thức khác nhau và lịch 
sử hình thành và phát triển kiểm toán nội bộ. 
Bài học đã cung cấp cho các bạn những kiến thức tổng quan về kiểm toán nội bộ để từ đó giúp 
bạn có cơ sở nghiên cứu và xem xét mối liên hệ giữa kiểm toán nội bộ với các loại hình kiểm 
toán khác trong hệ thống kiểm toán, đánh giá ban đầu về việc tổ chức kiểm toán nội bộ hiện nay 
ở Việt Nam. 
 Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
ACC506_Bai 1_v1.0010110228 21 
CÂU HỎI ÔN TẬP 
1. Nêu bản chất của kiểm toán nội bộ. 
2. Nêu các đặc trưng cơ bản của kiểm toán nội bộ. 
3. Nêu các yêu cầu cơ bản của tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. 
4. Nêu các cách thức tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ. 
5. Sơ lược về trình tự phát triển của kiểm toán nội bộ ở Việt Nam. 
 Bài 1: Tổng quan về kiểm toán nội bộ
22 ACC506_Bai 1_v1.0010110228 
BÀI TẬP 
Bài 1.1: 
Ông An là Giám đốc Công ty thương mại ACCI. Công ty của ông chuyên kinh doanh thiết bị lọc 
nước. Công ty nhập khẩu thiết bị này từ Nhật và xuất bán ở Việt Nam. Công ty ACCI hiện nay 
đã có các cửa hàng lớn ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Doanh thu của công ty trong 3 năm trở lại 
đây tăng lên rất nhanh. Cổ đông của công ty đang muốn chuyển công ty ACCI thành công ty mẹ 
và các cửa hàng thành công ty con để tăng tính độc lập và tự chủ trong kinh doanh cho các bộ 
phận ở từng khu vực. Ông An cũng đang có kế hoạch kiện toàn lại bộ máy tổ chức của công ty 
theo yêu cầu của các cổ đông. Ông An cũng là cổ đông của công ty với số vốn góp là 20%. Ông 
đang rất băn khoăn về việc có nên tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại công ty của mình hay 
không. Nếu tổ chức thì nên tổ chức theo mô hình nào? Bà Hà – một người có chứng chỉ kiểm 
toán viên hành nghề – hiện đang là giám đốc tài chính của công ty ACCI. Hiện nay, bộ phận kế 
toán của công ty đang có 6 người. Ông An đang muốn trao đổi với bà Hà về những vấn đề của 
công ty. 
Yêu cầu: 
1. Nếu bạn ở vị trí của bà Hà – giám đốc tài chính của công ty, thì bạn có tổ chức kiểm toán nội 
bộ tại công ty không? Tại sao? 
2. Nếu tổ chức kiểm toán nội bộ thì công ty nên tổ chức theo mô hình nào? Tại sao? 
3. Nếu công ty tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ, Bà Hà có nên là người phụ trách bộ phận kế 
toán và kiểm toán không? Tại sao? 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_kiem_toan_noi_bo_phan_i_kiem_toan_noi_bo_trong_he.pdf