Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí môi trường
Bất kỳ hoạt động sản xuất nào của doanh nghiệp (DN) cũng xả thải ra môi
trường và nguy cơ gây ra các loại ô nhiễm về nước, không khí, tiếng ồn, mùi
hôi, rung động, chất thải độc hại vùi sâu dưới đất. Theo các báo cáo của
Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 20181, Việt Nam là một quốc gia đã nằm
trong tình trạng báo động về các loại ô nhiễm2, 3. Bộ Tài chính hiện chưa có
hướng dẫn đánh giá đầy đủ chi phí môi trường của những sản phẩm, dịch
vụ và điều này dẫn đến sự tác động về 3 phía: (i) về phía DN, việc gian lận
không ghi nhận chi phí môi trường, dù dẫn đến đóng thuế thu nhập doanh
nghiệp cao hơn, nhưng DN sẽ chấp nhận để bỏ qua các chi phí lớn hơn về
xây dựng hệ thống xử lý các tác hại đến môi trường; (ii) về phía quản lý
Nhà nước, chưa có cơ sở đề ra các biện pháp quản lý nguồn ô nhiễm; (iii)
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí môi trường
do Davis Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí môi trường 46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 214- Tháng 3. 2020 Langdon (2007) làm chủ nhiệm Dự án. Kết quả cuối cùng được báo cáo năm 2007 là “Một phương pháp chung của châu Âu cho chi phí vòng đời”, trong đó đưa ra các phương pháp được đề xuất nhằm tương thích với ISO 15686- phần 5. 1Theo nghiên cứu của Renata Schneiderova Heralova (2017) thì có nhiều nghiên cứu mở rộng ngoài ngành xây dựng về LCC như: Sterner đã phát triển một mô hình để đánh giá đấu thầu, trong đó sử dụng phương pháp LCC để tính tổng chi phí năng lượng cho các tòa nhà, Aye và các cộng sự đã sử dụng LCC để phân tích một loạt các lựa chọn trong bất động sản và xây dựng, Bogensttter ủng hộ khả năng sử dụng tính toán LCC trong giai đoạn thiết kế ban đầu của các dự án, đặc biệt Cộng hòa Séc yêu cầu kế toán phải định lượng LCC khi quyết định xây dựng 1 Renata Schneiderova Heralova. (2017). Life cycle costing as an important contribution to feasibility study in construction projects. các công trình thuộc khu vực công và LCC đã trở thành một tiêu chí trong đấu thầu công khai. Như vậy, chi phí chu kỳ sống từ lâu đã được thừa nhận là công cụ ước tính và tập hợp các chi phí bao trùm toàn bộ thời gian tồn tại của một sản phẩm, dịch vụ với lưu ý rằng đây là chu kỳ sống vật lý của sản phẩm (Selin Gundes, 2015). Theo quan điểm của nhà sản xuất, chu kỳ sống của một sản phẩm được xem là có ba giai đoạn riêng biệt: (1) giai đoạn hoạch định; (2) giai đoạn sản xuất; (3) giai đoạn hủy bỏ. Kế toán quản trị chi phí thông thường tập trung tối ưu hóa chi phí sản xuất sản phẩm ở giai đoạn 2, đánh giá hiệu quả kinh doanh dựa trên lợi nhuận kế toán. Nếu kế toán quản trị sử dụng công cụ LCC thì sẽ phải tìm hiểu thêm các chi phí ẩn khác ở giai đoạn 1 và 3, sẽ giúp đánh giá được hiệu quả kinh doanh dựa trên lợi nhuận kinh tế. Hình 1. Các giai đoạn chu kỳ sống của sản phẩm, dịch vụ Nguồn: Peter Atrill and Eddie McLaney, 2009 VŨ THỊ KHÁNH MINH 47Số 214- Tháng 3. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Từ việc tìm tất cả các chi phí xảy ra trong một vòng đời của sản phẩm, dịch vụ sẽ giúp cho chúng ta tìm ra được các chi phí ẩn, chi phí ít hữu hình hơn, đó thường là các chi phí DN không chịu bỏ ra để khắc phục các thiệt hại môi trường do DN mình gây ra, hoặc chi phí chủ động bảo vệ môi trường (Hình 1). Trong đó, chi phí môi trường có thể xảy ra ở các giai đoạn được kể đến như là: - Ở giai đoạn hoạch định: Chi phí môi trường do sản xuất thử nghiệm sản phẩm. - Ở giai đoạn sản xuất: Chi phí xử lý chất thải là chi phí môi trường phổ biến nhất phát sinh trong giai đoạn sản xuất, gồm chi phí xử lý ô nhiễm bị gây ra bởi hoạt động máy móc, thiết bị; chi phí xử lý phế liệu của quá trình sản xuất tạo chất thải ra môi trường. - Ở giai đoạn hủy bỏ: Chi phí xử lý sản phẩm sau sử dụng nhưng vẫn còn hình thái và có tác động xấu đến môi trường như rác thải nhựa, kim loại; hoạt chất trong pin Tính toán đúng các CPMT trong giai đoạn sản xuất sẽ cung cấp thông tin chính xác về giá thành sản xuất. Còn tính đúng các CPMT (thường bị bỏ qua ở giai đoạn đầu khi hoạch định, triển khai sản xuất và giai đoạn cuối) sẽ tính được Lợi nhuận kinh tế của DN nhằm đánh giá tốt hơn về hiệu quả kinh doanh của DN. 3. Thực trạng hạch toán kế toán quản trị chi phí môi trường ở Việt Nam hiện nay Xem xét Thông tư 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 hướng dẫn thực hiện chế độ kế toán doanh nghiệp ta thấy: (1) Thông tư không có hướng dẫn chi tiết về các loại CPMT nên dẫn đến kế toán có hạch toán các CPMT nhưng không ghi nhận và đo lường đầy đủ; (2) Thông tư không có hướng dẫn hạch toán doanh thu, thu nhập môi trường nhằm làm giảm lợi nhuận, giảm thuế TNDN phải nộp. Các CPMT sau khi ghi nhận thường được phân loại là chi phí sản xuất chung, và nếu như có liên quan đến nhiều sản phẩm thì phải dùng tiêu thức phân bổ chứ thường không xác định được chi phí này là trực tiếp của sản phẩm nào. Tại Việt Nam, qua tham khảo các văn bản hướng dẫn thực hiện kế toán thì thấy rằng chưa có một văn bản kế toán nào hướng dẫn đầy đủ về kế toán quản trị môi trường nên các DN thường có cách xử lý sau: Kế toán có tính toán CPMT cung cấp thông tin để nhà quản lý ra quyết định về số tiền bỏ ra để mua hệ thống xử lý chất thải, tuy nhiên nó chỉ là một phần nhỏ của nội dung KTQTMT. Kế toán thường không xác định đầy đủ hết các chi phí; không tính toán được doanh thu, thu nhập liên quan đến môi trường, số tiền tiết kiệm chi phí do thiết kế lại quy trình sản xuất tốt hơn nên không cung cấp được thông tin cho nhà quản lý ra quyết định tiết kiệm chi phí trong sản xuất, cắt giảm lãng phí môi trường, xây dựng quy trình sản xuất sạch hơn, đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh từng sản phẩm Từ các phân tích nêu trên cho thấy, việc phải tính toán tìm ra được các CPMT trong toàn bộ chu kỳ sống của sản phẩm là rất cần thiết vì nó sẽ cung cấp thông tin chính xác về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, việc tính toán được các CPMT mà DN đã bỏ qua không chi bằng tiền để khắc phục, gây thiệt hại cho xã hội thì sẽ đánh giá được các trách nhiệm của DN với môi trường, nhà quản Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí môi trường 48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 214- Tháng 3. 2020 lý có cơ sở xem xét việc cho dừng hoạt động của DN nếu số tiền bỏ ra khắc phục thiệt hại môi trường lớn hơn các lợi ích DN mang lại. 4. Đề xuất áp dụng phương pháp Chi phí chu kỳ sống sản phẩm (LCC) trong kế toán quản trị chi phí môi trường Bất cứ một sản phẩm, dịch vụ nào ra đời thì cũng sẽ luôn gây ra các CPMT. Kế toán quản trị CPMT là một bộ phận của KTQTMT nhằm cung cấp các thông tin CPMT của doanh nghiệp, vì vậy để tính toán đầy đủ các CPMT của sản phẩm, dịch vụ thì cần phải nhận diện được toàn bộ chi phí ấy trong chu kỳ sống sản phẩm. Vận dụng các kết quả đã được nghiên cứu và áp dụng trên thế giới, kế toán quản trị áp dụng phương pháp LCC cho quản trị CPMT như sau: Thứ nhất, nghiên cứu các tiêu chuẩn ISO, vương quốc Anh, hoặc Châu Âu về LCC trong việc xây dựng công trình, lập dự án sản xuất kinh doanh để tính toán đầy đủ chi phí để ra quyết định có nên thực hiện dự án hay không. Thứ hai, nhà quản lý sử dụng công cụ chi phí LCC trong việc tối ưu chi phí sản xuất sản phẩm. Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát, mỗi DN sản xuất phải giải quyết bài toán tiết kiệm chi phí sản xuất một cách hợp lý và hiệu quả bằng cách tận dụng mọi cơ hội tiết kiệm chi phí. Trong giai đoạn hoạch định, bằng phương pháp kế toán chi phí mục tiêu (target costing), DN sẽ đặt ra chi phí mục tiêu và dùng các giải pháp tiết kiệm chi phí để thiết kế sản phẩm không vượt quá chi phí mục tiêu. Từ chi phí mục tiêu, kế toán tính toán tiếp để dự kiến chi phí chu kỳ sống sản phẩm có chấp nhận được không. Nếu chi phí chu kỳ sống chấp nhận được thì sẽ đưa sản phẩm vào sản xuất. Nếu tính toán chi phí chu kỳ sống chứa nhiều chi phí như xử lý chất thải ra môi trường, chi phí tiêu hủy sản phẩm thì phải cân nhắc lại việc thiết kế lại sản phẩm. Phân tích chi phí theo Hình 2, các biện pháp đưa ra gồm tiết kiệm chi phí, cắt giảm lãng phí để nhằm thực hiện được tối ưu chi phí theo chi phí mục tiêu, tối ưu chi phí trong toàn bộ LCC. Công cụ này đặc biệt còn có ý nghĩa đối với những doanh nghiệp mà chi phí hoạch định và triển khai lớn, hoặc những doanh nghiệp có chi phí hủy bỏ sản phẩm lớn vì nếu chỉ căn cứ vào mỗi chi phí sản xuất mà bỏ qua chi phí chu kỳ sống sản phẩm thì chỉ tính toán được Lợi nhuận kế toán chứ không phải Lợi nhuận kinh tế của sản phẩm, mà Lợi nhuận kinh tế mới là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của sản xuất sản phẩm. Thứ ba, nhà quản lý áp dụng LCC vào quy trình sản xuất sạch hơn, từ đó giúp môi trường được bền vững. Để DN cải thiện lại quy trình sản xuất giúp sản xuất sạch hơn, giúp môi trường phát triển bền vững thì kế toán CPMT trong một dự án không chỉ dừng lại ở cung cấp số liệu về CPMT để xác định lợi nhuận của dự án, mà cần phân tích, đánh giá LCC của dự án đó, phải nhận diện và đo lường được các tác động đến môi trường của việc sản xuất sản phẩm thì mới giúp DN có cơ hội thiết kế lại quy trình sản xuất sạch hơn với môi trường. Việc đánh giá LCC phải được tiêu chuẩn VŨ THỊ KHÁNH MINH 49Số 214- Tháng 3. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Hình 2. Các công cụ chi phí để ra quyết định Giá bán mục tiêu Nguồn: Robert S. Kaplan and Anthony A. Atkinson, 1998 Giai đoạn hoạch định Sản phẩm Lợi nhuận mục tiêu Chi phí mục tiêu Thay đổi thiết kế sản phẩm và quá trình sản xuất chủ yếu Thiết kế có đáp ứng chi phí mục tiêu không? Ước tính chi phí chu kỳ sống Chi phí chu kỳ sống dự kiến có chấp nhận được không? Đưa sản phẩm vào sản xuất Thay đổi thiết kế sản phẩm và quá trình sản xuất thứ yếu Loại bỏ sản phẩm Giai đoạn loại bỏ Giai đoạn sản xuất Có Có Chi phí chu kỳ sống Chi phí mục tiêu Chi phí Kai- ren Không Không Áp dụng phương pháp đánh giá chi phí chu kỳ sống sản phẩm trong kế toán quản trị chi phí môi trường 50 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 214- Tháng 3. 2020 hóa về phương pháp thực hiện. Trong phần giới thiệu ISO 14040 (ISO 2006a) nhận định “Đánh giá LCC giải quyết các khía cạnh môi trường và tác động tiềm tàng (ví dụ đánh giá việc sử dụng tài nguyên và hậu quả tác động đến môi trường) trong suốt vòng đời sản phẩm, từ thu mua nguyên liệu thông qua sản xuất, sử dụng đến giai đoạn cuối cùng là loại bỏ”. Phương pháp đánh giá LCC này còn được White và cộng sự (1996) định nghĩa “Đánh giá LCC là phân tích toàn diện, dài hạn về toàn bộ chi phí nội bộ và tiết kiệm do các dự án ngăn ngừa ô nhiễm và các dự án môi trường khác được thực hiện bởi một công ty”. Vì vậy, đánh giá LCC là phương pháp đánh giá của kế toán quản trị, nên nó có sự khác biệt với kế toán ghi nhận LCC thông thường (Bảng 1). Phương pháp đánh giá chu kỳ sống LCC là sẽ giúp kế toán so sánh được trạng thái hiện tại của hệ thống sản xuất với trạng thái tương lai hoặc so sánh 2 phương án sản xuất kinh doanh để lựa chọn phương án sản xuất, cải tiến quy trình sản xuất theo hướng giúp môi trường bền vững. Tư duy của phương pháp đánh giá chu kỳ sống LCC là dựa vào LCC, kế toán sẽ cung cấp thông tin về toàn bộ chi phí vòng đời sản phẩm để DN đánh giá Lợi nhuận kinh tế và cải thiện hiệu suất môi trường. Đây là cơ sở để bộ phận quản lý nhà nước hoàn thiện quy trình cấp giấy phép hoạt động cho các DN sản xuất phải an toàn với môi trường. Đây còn là cơ sở để phía quản lý nhà nước kiểm tra việc DN có tuân thủ luật pháp môi trường; đánh giá trách nhiệm xã hội của DN và thiết lập các chế tài pháp luật để xử phạt đối với các DN vi phạm. 5. Kết luận Bài viết đã thảo luận về lý thuyết và tính hữu ích thực tế của phương pháp LCC trong việc đưa ra các quyết định đầu tư có trách nhiệm với môi trường. Kế toán quản trị CPMT khi áp dụng phương pháp LCC sẽ giúp DN kiểm soát được chi phí phát sinh, tiết kiệm được chi phí để phù Bảng 1. Sự khác biệt phương pháp kế toán ghi nhận LCC thông thường và Phương pháp kế toán quản trị đánh giá LCC Phương pháp kế toán ghi nhận LCC thông thường Phương pháp kế toán quản trị đánh giá LCC Cơ sở đánh giá về chi phí môi trường Kế toán tính toán chi phí thông thường của sản xuất sản phẩm Kế toán đánh giá cả chi phí thông thường và các chi phí ẩn hoặc ít hữu hình hơn trong LCC, là các chi phí không được ghi nhận bên kế toán tài chính như chi phí hủy bỏ, tái chế chất thải sau khi sử dụng. Kế toán ghi nhận CPMT là chi phí sản xuất chung, không phân bổ chi tiết cho sản phẩm Kế toán phân bổ CPMT cho từng sản phẩm nhằm vừa dự tính được LCC, vừa đánh giá được LCC (CPMT xảy ra do sản xuất sản phẩm đó). Từ đó so sánh được trạng thái hiện tại với tương lai hay phương án A so với B để cải tiến, lựa chọn quy trình sản xuất sạch hơn. Cơ sở đánh giá về lợi ích môi trường Kế toán tài chính không ghi nhận lợi ích kinh tế của các biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường Kế toán có ghi nhận lợi ích kinh tế của các biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường, hay số tiền tiết kiệm chi phí do thiết kế lại quy trình sản xuất tốt hơn nhằm để đánh giá Lợi nhuận kinh tế. Nguồn: Tác giả tự tổng hợp VŨ THỊ KHÁNH MINH 51Số 214- Tháng 3. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng hợp thiết kế ban đầu và đánh giá lại hiệu quả sản xuất có an toàn với môi trường hay không. Bên cạnh việc nhà quản trị chi phí chủ động áp dụng phương pháp LCC và đánh giá lại nó để thực hiện hoạt động sản xuất của DN mình sạch hơn, nhà quản lý doanh nghiệp cần hoàn thiện càng nhanh càng tốt chế độ kế toán quản trị môi trường để DN có cơ sở thực hiện và làm khuôn khổ pháp lý để chống các tác hại từ hoạt động sản xuất kinh doanh của DN gây ra cho môi trường ■ Tài liệu tham khảo 1. ISO (2006a). Environmental management—Life-cycle assessment: Principles and framework. Geneva: International organisation for standardisation. 2. ISO 15686 part 5 - Life-cycle costing 3. Marianna Lena Kambanou and Mattias Lindahl. (2016). A Literature Review of Life Cycle Costing in the Product- Service System Context. At https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S2212827116300245 4. Marketa Spickova and Renata Myskova. (2015). Costs Efficiency Evaluation using Life Cycle Costing as Strategic method. At https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S221256711501638 5. Peter Atrill and Eddie McLaney. (2009). Management Accounting for Decision Makers. 6th edition, Prentice Hall Europe, chapter 5. 6. Renata Schneiderova Heralova. (2017). Life cycle costing as an important contribution to feasibility study in construction projects. At https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1877705817331521 7. Robert S. Kaplan and Anthony A. Atkinson. (1998). Advanced Management Accounting. 3rd edition, Prentice Hall, Upper Saddle River, New Jersey 07458, chapter 6. 8. Selin Gundes. (2015). The Use of Life Cycle Techniques in the Assessment of Sustainability. At https://www. sciencedirect.com/science/article/pii/S1877042815062680 9. Walter Klöpffer, Isa Renner. (2008). Life-Cycle Based Sustainability Assessment of Products. Environmental Management Accounting for Cleaner Production. Springer, chapter 5 10. White, A. L., Savage, D., & Shapiro, K. (1996). Life-cycle costing: Concepts and application. In M. A. Curran (Ed.), Environmental life-cycle assessment (pp. 1–19). New York: McGraw-Hill.
File đính kèm:
- ap_dung_phuong_phap_danh_gia_chi_phi_chu_ky_song_san_pham_tr.pdf