Ảnh hưởng của việc mua bảo hiểm y tế và ô nhiễm không khí lên chỉ tiêu y tế ở Việt Nam
Sức khỏe là một khía cạnh quan trọng của vốn
con người, tác động tích cực đến đầu ra kinh tế ở cả
cấp độ vi mô và vĩ mô. Sức khỏe tốt hơn có thể giúp
cá nhân nâng cao được hiệu quả làm việc và năng
suất lao động từ đó gia tăng thu nhập cho bản thân
cá nhân và cuối cùng là gia tăng tổng sản phẩm xã
hội nói chung. Với các yếu tố khác không đổi thì
tình trạng sức khỏe của một cá nhân có thể được
nâng cao bằng việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe. Chăm sóc sức khỏe là một hàng hóa đặc
biệt và cầu về hàng hóa này cũng chịu tác động của
nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có các nhân tố về
kinh tế, xã hội, nhân khẩu học và các đặc điểm của
từng hộ gia đình.
Ở Việt Nam, trong nhiều thập kỷ qua, nhiều
chính sách cải cách về y tế được thực hiện dẫn đến
chất lượng dịch vụ y tế đã có cải tiến vượt bậc về
chất lượng. Sức khỏe của người dân Việt Nam được
cải thiện đáng kể và đây cũng là yếu tố quan trọng
góp phần nâng cao năng lực sản xuất và tăng trưởng
kinh tế trong những năm qua. Tuy nhiên, đặc thù của
Việt Nam là một nước đang phát triển với thu nhập
bình quân đầu người còn thấp, trình độ phát triển xã
hội chưa đồng đều dẫn đến việc tiếp cận với chăm
sóc y tế còn gặp nhiều rào cản. Ngoài ra, tình trạng
môi trường ở Việt Nam từ nguồn nước, không khí,
thức ăn, tiếng ồn hay đất đai đang bị ô nhiễm ở mức
báo động, đe dọa trực tiếp đến sức khỏe con người
và lan rộng trong nhiều khía cạnh sinh hoạt đời
sống. Các nhà khoa học chỉ ra rằng một trong số các
nguyên nhân dẫn đến tình trạng ung thư ngày càng
tăng chính là do môi trường sống ngày càng xuống
cấp trầm trọng (Anh Tuấn, 2017). Số người mắc
bệnh ung thư, bệnh nghề nghiệp, ảnh hưởng đến
thần kinh và chức năng của tuyến nội tiết, con cái bị
dị tật bẩm sinh ngày một tăng. Điều này gia tăng áp
lực chi tiêu y tế cho các hộ gia đình. Khí hậu nhiệt
đới gió mùa ẩm cũng thuận lợi cho sự phát triển
nhiều nguồn bệnh, cùng với vấn đề già hóa dân số
cũng làm gia tăng đáng kể cầu về dịch vụ y tế ở
nước ta. Cầu về y tế là một nội dung quan trọng
đang được nghiên cứu trong giai đoạn hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của việc mua bảo hiểm y tế và ô nhiễm không khí lên chỉ tiêu y tế ở Việt Nam
liệu cũng như lượng khí thải ra môi trường rất lớn. Hoạt động tái chế cũng tạo sức ép đáng kể lên môi trường và phổ biến ở khu vực miền Bắc. Ngành xây dựng gây áp lực môi trường không khí chủ yếu do các đơn vị thi công chưa thực hiện đầy đủ và nghiêm ngặt các biện pháp bảo vệ môi trường tại công trường xây dựng. Hoạt động dân sinh tập trung ở khu vực nông thôn, nơi nguyên liệu đun nấu và sản xuất vẫn chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch, củi và các chất thải chưa được kiểm soát cũng như việc sử dụng năng lượng của các doanh nghiệp là nguyên nhân gây ra mức khí thải từ sản xuất điện năng và nhiệt năng tăng cao. Lượng khí thải đến từ giao thông (CO, VOC, TSP từ xe máy và SO2, NO2 từ ô tô) chiếm một tỷ lệ không nhỏ ở mức 23% do số lượng phương tiện giao thông gia tăng mạnh mẽ qua các năm góp phần suy giảm đáng kể chất lượng môi trường không khí. Do áp lực từ quá trình đô thị hóa, lượng khí thải từ các tòa nhà dân cư và dịch vụ thương mại cũng gây ra ô nhiễm không khí, chiếm tỷ lệ 8%. Ngành chăn nuôi với quy mô và số lượng tăng nhanh chóng làm phát sinh các loại khí thải như CO2, CH4, NOx, H2S và NH3. Lĩnh vực trồng trọt cũng gây ra vấn đề môi trường do tăng lượng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật và lượng chất thải sau thu hoạch (gồm rơm rạ, cây khô) thiếu kiểm soát. Lượng khí thải chiếm 1% đến từ các nguồn này. Ô nhiễm không khí rõ ràng đang ở mức báo động tại các khu đô thị, khu công nghiệp và thành phố lớn. Điều này góp phần tạo ra sự khác biệt rõ rệt đến mức chi tiêu y tế các hộ gia đình giữa khu vực nông thôn và thành thị. Hình 2 cho thấy mức thiệt hại ô nhiễm không khí đến tổng thu nhập quốc dân GNI rất cao mức 3,39% năm 2010, giảm năm 2012 và có xu hướng tăng trở lại từ 2,82% năm 2012 lên 3,3% năm 2016. Trung bình cả giai đoạn, mức thiệt hại của ô nhiễm không khí đến GNI là 3,1%. Kết quả bảng 2 cho thấy mức chi tiêu y tế trung bình của hộ gia đình tại Việt Nam ở cả thành thị và 15 ? Sè 136/2019 Kinh tÕ vμ qu¶n lý thương mại khoa học Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2010-2016) Hình 1: Tình trạng ô nhiễm khí thải ở Việt Nam ?nông thôn đều có xu hướng tăng đáng kể từ năm 2010 đến năm 2016. Chi phí khám chữa bệnh tại thành thị cao hơn nông thôn do thu nhập, trình độ giáo dục cũng như khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế tốt hơn. Tại khu vực thành thị, trung bình một hộ gia đình chi tiêu cho y tế 3,8 triệu đồng năm 2010 thì đến năm 2016, chi phí y tế là 5,9 triệu đồng. Trong khi đó, tại khu vực nông thôn con số này là 2,8 triệu đồng năm 2010 tăng lên 4,4 triệu đồng năm 2016. Mức chi phí cho y tế cho cả nước tăng gấp hơn 1,5 lần trong vòng 6 năm từ 3,04 triệu đồng năm 2010 lên 4,83 triệu đồng năm 2016. Theo kết quả khảo sát mức sống dân cư trong giai đoạn 2010- 2016, chi phí bình quân 1 người khám chữa bệnh năm 2012 là 1,94 triệu đồng, cao gấp 1,4 lần so với năm 2010. Năm 2014 con số này tăng lên 2,35 triệu đồng. Năm 2016, chi phí khám chữa bệnh trung bình của một cá nhân tăng gấp đôi so với năm 2010 ở mức 2,76 triệu đồng. Trong khi đó, thu nhập trung bình hộ gia đình ở Việt Nam tăng đáng kể từ khoảng 74 triệu năm 2010 lên gấp đôi là 148 triệu đồng năm 2016. Đời sống tốt hơn cũng là lý do khiến người dân sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn cho các dịch vụ y tế. Mức chi tiêu y tế trong giai đoạn này chiếm khoảng 3-4% tổng thu nhập của các hộ gia đình. Kết quả Ngân hàng Thế giới năm 2018 đánh giá thì mức chi phí y tế hiện tại của Việt Nam vào khoảng 6% GDP và có thể duy trì tăng ổn định trong vòng hai thập kỷ tới. 4.2. Đánh giá tác động của bảo hiểm y tế và các yếu tố môi trường lên cầu y tế tại Việt Nam Bằng kiểm định Hausman, kết quả từ bảng 3 chỉ định mô hình số liệu mảng với tác động cố định cùng với hệ số của các biến trong mô hình đều có ý nghĩa cao ở mức 1%. Kết quả của biến X1 đại diện việc mua BHYT của cá nhân dương phản ánh rằng việc mua BHYT gia tăng chi tiêu y tế của người mua Sè 136/201916 Kinh tÕ vμ qu¶n lý thương mại khoa học Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2010-2016) Hình 2: Mức thiệt hại của ô nhiễm không khí đến tổng thu nhập quốc dân (GNI) Bảng 2: Chi tiêu y tế của các hộ gia đình ở Việt Nam giai đoạn 2010-2016 Đơn vị: nghìn đồng Nguồn: Tổng cục thống kê (2010-2016) Mӭc chi tiêu y tӃ trung bình hӝ JLDÿuQK QăP Thành thӏ Nông thôn Cҧ Qѭӟc Thu nhұp bình quân hӝ gia ÿuQKQăP Chi tiêu y tӃ cá nhân trung EuQKQăP 2010 3804,26 2757,24 3043,55 74.528 1385 2012 4983,74 3285,79 3764,94 105.225 1940 2014 5557,76 4260,75 4642,65 126.456 2350 2016 5854,43 4397,22 4831,71 148.260 2760 bảo hiểm. Nguyên nhân có thể đến từ tâm lý e ngại đến bệnh viện của người bệnh đặc biệt ở vùng nông thôn. Khi không may gặp rủi ro về sức khỏe, rất nhiều người chỉ đến các phòng khám hoặc các bác sĩ tư với trình độ chuyên môn hạn chế. Khi bệnh trở nên nặng hơn, người bệnh mới sử dụng BHYT để đến các cơ sở khám chữa bệnh uy tín thì chi phí y tế lại trở nên vô cùng đắt đỏ. Ngoài ra, chi tiêu y tế ngoài khám chữa bệnh thì còn bao gồm nâng cao sức khỏe và phòng tránh bệnh tật. Tại các thành phố lớn với mức thu nhập cao, nhiều người còn quan tâm tới gói dịch vụ chăm sóc sức khỏe riêng bên cạnh BHYT để giảm thiểu rủi ro về sức khỏe trong tương lai. Điều này cũng góp phần gia tăng chi tiêu y tế của cá nhân. Kết quả này cũng có điểm tương đồng với nghiên cứu của Santerre và Neun (2010). Bởi vì 17 ? Sè 136/2019 Kinh tÕ vμ qu¶n lý thương mại khoa học Bảng 3: Ảnh hưởng của BHYT và yếu tố môi trường lên cầu y tế tại Việt Nam Sai số tiêu chuẩn đã được hiệu chỉnh trong ngoặc đơn ***: mức ý nghĩa 1%; **: mức ý nghĩa 5%; *: mức ý nghĩa 10% Nguồn: Ước lượng của các tác giả Mô hình WiFÿӝng cӕ ÿӏnh (FE) Mô hình WiFÿӝng ngүu nhiên (RE) Các biӃQÿӝc lұp HӋ sӕ HӋ sӕ X1 197,23*** (58,40) 92,02*** (26,12) X2 96,48*** (47,24) 81,08*** (24,39) X3 0,03*** (0,00) 0,04*** (0,00) X4 0,001*** (0,00) 0,001 (0,00) X5 993,70** (396,50) -11,76 (28,71) X6 316,34*** (120,61) 44,55 (29,93) X7 20,12*** (2,644) 22,76*** (0,58) X8 79,72*** (27,10) 89,10*** (18,92) Sӕ quan sát 145467 145467 Hausman Test P-value=0,00Į ,05 ?BHYT làm giảm giá chăm sóc sức khỏe, bệnh nhân có thể tiếp tục cầu dịch vụ y tế miễn là lợi ích cận biên lớn hơn chi phí cận biên và trong trường hợp này người tiêu dùng sẽ yêu cầu chăm sóc nhiều hơn nếu họ mua bảo hiểm. Kết quả của các hệ số biến X2 và X3 dương ủng hộ việc nếu tần suất điều trị nội trú và ngoại trú của người dân tăng lên cùng với mức chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ khác tăng lên thì chi cho dịch vụ y tế sẽ cao hơn. Hệ số của biến tương tác giữa trình độ học vấn và mức thu nhập của thành viên trong gia đình X4 dương cho thấy sự hiểu biết xã hội của cá nhân cần đi kèm mức thu nhập cao thì chi tiêu cho y tế sẽ nhiều hơn so với những người có trình độ học vấn cao mà mức thu nhập thấp hoặc những người có trình độ học vấn và thu nhập thấp. Rõ ràng, thu nhập vẫn là yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến chi tiêu sức khỏe và hàng hóa dịch vụ của các cá nhân. Dấu của biến nơi cư trú X5 dương cho biết chi tiêu y tế tại khu vực thành thị đang cao hơn nông thôn. Kết quả này phù hợp với phân tích mức chi tiêu y tế theo khu vực tại bảng 2. Biến giới tính X6 dương phản ánh mức chi tiêu y tế của nữ giới đang nhiều hơn nam giới. Khác với nam giới, nữ giới cần được chăm sóc sức khỏe sinh sản. Ngoài ra, tuổi thọ trung bình của phụ nữ cao hơn so với nam giới. Do đó, việc giữ gìn sức khỏe để có thể trang trải cho các chi phí y tế là những mối quan tâm hàng đầu đối với phụ nữ. Biến biến tuổi thành viên X7 chỉ ra rằng người càng cao tuổi thì mức chi tiêu y tế càng lớn. Theo các đánh giá gần đây, người cao tuổi ở Việt Nam có chi phí y tế cao gấp 7-10 lần người trẻ. Việt Nam nằm trong danh sách các nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất với tỉ lệ người trên 60 tuổi ngày càng gia tăng. Người già thường dễ mắc các bệnh như tăng huyết áp, đái tháo đường, ung thư, suy giảm nhận thức, rối loạn vận động, lú lẫn, trầm cảm, tai biến... có thể phải điều trị suốt đời cũng như tăng nguy cơ tàn phế. Biến X8 thể hiện mức thiệt hại khí thải ở Việt Nam ảnh hưởng đến tổng thu nhập quốc dân mang dấu dương. Kết quả này chỉ ra khi mức độ ô nhiễm không khí cao, chi tiêu y tế của người dân càng lớn. Ô nhiễm không khí không chỉ là vấn đề nóng tập trung ở các đô thị phát triển, các khu, cụm công nghiệp mà đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Ô nhiễm không khí được xem là một trong những tác nhân hàng đầu có nguy cơ tác động nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng như đẩy nhanh quá trình lão hóa, suy giảm chức năng hô hấp, gây các bệnh hen suyễn, ho, viêm mũi, viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi, tim mạch và làm giảm tuổi thọ con người. Nguy hiểm nhất là có thể gây ra các bệnh ung thư. Điều này gia tăng áp lực chi tiêu y tế cho các hộ gia đình. 5. Kết luận và khuyến khị giải pháp 5.1. Kết luận Các kết quả phân tích ở trên đã cho thấy ba điểm quan trọng. Thứ nhất, thông qua dữ liệu tổng hợp từ số liệu điều tra mức sống dân cư của Tổng cục thống kê và số liệu lượng khí thải ô nhiễm từ năm 2010- 2016 của Ngân hàng thế giới, chi phí dành cho y tế của các hộ gia đình trong mẫu điều tra tăng từ 3,04 triệu đồng năm 2010 lên 4,83 triệu đồng năm 2016. Chi phí khám chữa bệnh tại thành thị cao hơn nông thôn do thu nhập, trình độ giáo dục cũng như khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế tốt hơn. Mức chi tiêu y tế trong giai đoạn này chiếm khoảng 3-4% tổng thu nhập của các hộ gia đình. Chi phí bình quân 1 người có khám chữa bệnh năm 2010 là 1,36 triệu đồng tăng lên gấp đôi là 2,76 triệu đồng năm 2016. Thứ hai, nghiên cứu tìm thấy ảnh hưởng của việc mua BHYT gia tăng chi tiêu y tế. BHYT làm giảm giá chăm sóc sức khỏe có thể khiến người tiêu dùng yêu cầu chăm sóc nhiều hơn miễn là lợi ích cận biên lớn hơn chi phí cận biên. Thứ ba, ô nhiễm không khí được xem là một trong những tác nhân hàng đầu tác động nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng và gia tăng gánh nặng chi phí y tế của các cá nhân nói riêng và hộ gia đình nói chung theo thời gian. Một số biến khác đại diện cho đặc điểm của hộ gia đình (việc khám nội trú/ngoại trú, chi tiêu bình quân của cá nhân của hộ, thu nhập) và nhân khẩu học (học vấn, nơi cư trú, giới tính, tuổi tác) cũng tác động đến chi tiêu y tế. 5.2. Khuyến nghị giải pháp Như vậy, để giảm chi tiêu y tế trong tương lai cần có sự vào cuộc của rất nhiều bộ, ban ngành và địa phương. Để hướng tới BHYT toàn dân, chính sách BHYT cần phải nghiên cứu kỹ càng để BHYT thực sự bảo đảm quyền lợi cho người tham gia. Bộ Y tế cần cải thiện chất lượng dịch vụ thăm khám chữa bệnh của các cơ sở chăm sóc, chữa bệnh từ trung ương tới địa phương, đồng thời cần đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám chữa bệnh và cải cách thủ tục hành chính; bảo đảm công khai, minh bạch trong cung ứng dịch vụ y Sè 136/201918 Kinh tÕ vμ qu¶n lý thương mại khoa học tế, trong giám định chi phí và thanh toán BHYT và góp phần tăng độ chính xác và hiệu quả trong quản lý Nhà nước về BHYT. Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với Bộ Giao thông vận tải tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về bảo vệ môi trường, thắt chặt tiêu chuẩn khí thải từ các phương tiện giao thông đường bộ và tăng cường chất lượng phương tiện giao thông công cộng, thử nghiệm nhiên liệu sạch thân thiện với môi trường tại một số đô thị. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần kiểm soát các nguồn phát thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, chú trọng đầu tư công nghệ xử lý khí thải phù hợp với từng loại hình sản xuất; ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh; tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải các loại khí nhà kính và đẩy mạnh triển khai nhóm giải pháp xanh (tăng trưởng xanh, phát triển phát thải các bon thấp, chi trả dịch vụ môi trường). Các địa phương đặc biệt tại các thành phố lớn cần xây dựng các chương trình, kế hoạch và triển khai giải quyết hiệu quả vấn đề ô nhiễm không khí tại các đô thị.u Tài liệu tham khảo: 1. Abdullah, H., Azam, M & Zakariya, S. (2016), The impact of environment quality on pub- lic health expenditure in Malaysia, Asia Pacific Journal of Advanced Business and Social Studies, 2 (2), 365-379. 2. Ajakaiye, O. & Mwabu, G. (2007), The demand for reproductive health services: an appli- cation of control function approach, AERC Working Paper Series, Nairobi. 3. Anh Tuấn (2017), Ô nhiễm không khí: Nguyên nhân hàng đầu gây ung thư, Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2019, từ: h t tp : / /vea.gov.vn/vn/quanlymt/suckhoe- moitruong/Pages/Ô-nhiễm-không-khí--Nguyên- nhân-hàng-đầu-gây-ung-thư.aspx. 4. Grossman (1972), On the Concept of Health Capital and the Demand for Health, The Journal of Political Economy, 80 (2), 223-255. 5. Jowett, M., Deolalikar, A., & Martinsson, P. (2004), Health Insurance and Treatment Seeking Behavior: Evidence from a Low-Income Country, Health Economics, 13, 845-857. 6. Lépine, A. & Nestour, A. (2008), Health care utilization in rural Senegal: the factors before the extension of health insurance to farmers, Research Paper, International Labour Office. 7. Koç (2004), The productivity of health care and health production functions, Health Economics, 13 (8), 739-747. 8. Pauly, M. (1968), The Economics of Moral Hazard: Comment, American Economic Review, 58 (3), 531-537. 9. Santerre, R. & Neun, S. (2010), Health Economics: Theories, Insights, and Industry Studies, Cengage Publishing, USA. 10. Thanh Hương (2016), 77,1% dân số tham gia bảo hiểm y tế, Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2019, từ: https://baomoi.com/77-1-dan-so-tham-gia-bao- hiem-y-te/c/19638677.epi. 11. Tổng cục thống kê (2016), Y tế, Truy cập lần cuối ngày 13 tháng 1 năm 2019, từ: mid=&ItemID=18531. 12. Wagstaff, A. (2007), The economic conse- quences of health shocks: Evidence from Vietnam, Journal of Health Economics, 26, 82-100. Summary The study looks at the spending on health in Vietnam from 2010 to 2016 and the influence of health insurance taking and air pollution on respon- dents’ medical needs in the survey. Initial results show that the individuals’ average medical spending increased from VND1.36 million in 2010 to VND 2.76 million in 2016. The medical spending level of households in the research period accounted for 3- 4% of their total income. Secondly, the study finds that taking out health insurance heightens the buyer’s medical spending. Thirdly, air pollution has serious effect on public health and causes stress on the current medical spending. 19Sè 136/2019 Kinh tÕ vμ qu¶n lý thương mại khoa học
File đính kèm:
- anh_huong_cua_viec_mua_bao_hiem_y_te_va_o_nhiem_khong_khi_le.pdf