Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam

Tóm tắt: Tác giả chủ yếu phác thảo lại quá trình thâm nhập của truyền thông xã hội (social

media) vào Việt Nam từ đầu những năm 2000, qua đó phân tích những tác động của nó tới môi

trường báo chí. Tác giả cho rằng, tuy truyền thông xã hội có nhiều ảnh hưởng tích cực đến sự phát

triển của nền báo chí-truyền thông nước nhà, nhưng bản thân nó cũng có những mặt hạn chế nhất

định cần được hiểu rõ hơn.

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 6

Trang 6

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 7

Trang 7

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 10360
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam

Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến môi trường báo chí Việt Nam
 hơn với quần chúng. Dù không 
phủ nhận vai trò cung cấp thông tin của báo in 
trong giai đoạn tiền internet, nhưng có thể thấy 
rằng, báo in chưa bao giờ tạo ra được một diễn 
đàn chung để công chúng thảo luận những vấn 
đề cùng quan tâm. Sự cải tiến về công nghệ của 
báo mạng internet đã giúp hình thành nên điều 
N.K. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 12-19 
16 
đó, và nhân tố tác động trực tiếp nhất đến sự cải 
tiến đó chính là sự phát triển của mạng xã hội. 
Không chỉ tác động đến sự cải tiến về công 
nghệ của báo online, mạng xã hội còn giúp báo 
chí hoạt động công khai, minh bạch, và chuyên 
nghiệp hơn nhờ khả năng lan truyền siêu tốc 
của nó. Với mạng xã hội, một bài báo thu hút sự 
quan tâm của công chúng có thể được “share” 
hàng chục nghìn lần, tiếp cận đến hàng triệu 
người trong vòng vài tiếng đồng hồ, thông qua 
mạng lưới đan xen dày đặc của nó. Điều này 
khiến cho những sai sót của báo chí rất dễ bị 
phát hiện, và một khi được phát hiện thì rất khó 
để sửa chữa, bởi dù có sửa lỗi/gỡ bài báo ra 
khỏi hệ thống nhanh chóng, thì nó có thể đã 
được hàng nghìn người đọc và chia sẻ. 
 Với sự xuất hiện của các mạng xã hội như 
Facebook hay Youtube, chưa bao giờ độc giả 
lại có sức mạnh to lớn đến vậy trong việc giám 
sát và phản hồi những thông tin có được từ báo 
chí. Nếu như báo chí truyền thống được coi là 
“quyền lực thứ tư”, và có chức năng giám sát, 
kiểm tra hoạt động của nhà nước và tổ chức, 
doanh, thì với sự xuất hiện của mình, mạng xã 
hội lại đóng vai trò “quyền lực thứ năm” trong 
việc giám sát hoạt động của các cơ quan truyền 
thông. Qua đó, mạng xã hội góp phần tích cực 
trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm báo 
chí, giúp nó trở nên thiết thực hơn, chất lượng 
hơn, và gắn bó mật thiết hơn với nhu cầu và mong 
muốn của công chúng. Báo chí thời đại internet 
không còn là công cụ truyền thông một chiều từ 
tòa soạn đến độc giả nữa, mà đang dần trở thành 
một diễn đàn thực sự để công chúng tiếp nhận 
thông tin và tranh luận về các vấn đề quan tâm. 
3.2. Mạng xã hội và “lá cải hóa” báo chí 
Tuy vậy, mạng lưới rộng và tính lan truyền 
nhanh của mạng xã hội cũng tác động tiêu cực 
đến xu hướng “lá cải hóa” trong nền báo chí-
truyền thông Việt Nam. Lá cải hóa ở đây có thể 
hiểu là việc các tờ báo lợi dụng việc đưa các tin 
tức giật gân (hay còn được các nhà báo, phóng 
viên gọi là những bài “cướp, giết, hiếp”), đưa 
tin về người nổi tiếng trong giới giải trí hay thể 
thao, để thu hút sự chú ý của độc giả, từ đó dẫn 
đến hành vi tiêu dùng (mua báo hoặc truy cập 
để đọc bài báo) [10]. Lá cải hóa có xu hướng 
làm lẫn lộn ranh giới giữa thông tin và giải trí, 
qua đó làm giảm đi chất lượng những cuộc thảo 
luận của công chúng (public discourse) về 
những đề tài quan trọng [11]. 
Dù xu hướng lá cải hóa báo chí bắt đầu từ 
việc sản phẩm báo chí được thị trường hóa, có 
thể nhận thấy rằng mạng xã hội góp phần không 
nhỏ vào việc gia tăng tốc độ “lá cải hóa” ở trong 
môi trường báo chí-truyền thông Việt Nam. 
Lý do cốt yếu nằm ở cơ chế lan truyền. Nền 
tảng công nghệ giúp cho việc chia sẻ đường 
link và thông tin giữa các cá nhân trở nên dễ 
dàng hơn trước rất nhiều. Một thông tin thú vị 
có khả năng trở nên “viral” (lan truyền nhanh), 
được truyền tải thông qua mạng xã hội như một 
thứ virus: tăng lên theo cấp số nhân khi lan từ 
network của cá nhân này sang cá nhân khác. 
Lấy một ví dụ điển hình là trang tin 
24h.com.vn. Trang tin này có đến gần 1,5 triệu 
likes trên mạng xã hội Facebook, điều đó đồng 
nghĩa với việc bất cứ bài báo nào được “post” 
lên fanpage của trang tin này thì đều có thể 
được tiếp cận bởi gần 1,5 triệu người. Về mặt lý 
thuyết, con số người đọc bài báo có thể tăng lên 
gấp bội, khi chỉ cần một phần trong số 1,5 triệu 
người đó share đường link trong network của 
mình. Điều đó thúc đẩy các tòa soạn tìm kiếm 
những thông tin “thú vị”: đủ hấp dẫn để độc giả 
quan tâm, dễ hiểu để tiếp cận với phần đông 
độc giả, và đa phần là gây tranh cãi để độc giả 
tích cực tham gia chia sẻ, thảo luận về đề tài, 
N.K. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 12-19 17
qua đó tăng lượng truy cập. Lượng truy cập cao 
đồng nghĩa với doanh thu quảng cáo cao hơn 
cho các tờ báo. 
Nhiệm vụ quan trọng nhất của báo chí nước 
ta là “phổ biến những đường lối, chủ trương của 
Đảng và nhà nước đến nhân dân”, và là “diễn 
đàn của nhân dân, phản ánh một cách trung 
thực tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của 
nhân dân với Đảng và nhà nước” [12]. Xu 
hướng lá cải hóa khiến cho báo chí xa rời 
những tiêu chí trên, và một trong những nhân tố 
quan trọng làm đẩy nhanh xu hướng đó chính là 
sự bùng nổ của mạng xã hội. 
3.3. Mạng xã hội và Báo chí công dân (citizen 
journalism) 
Nền tảng web 2.0 của truyền thông xã hội 
giúp cho công chúng (ở đây có thể coi là độc 
giả của báo chí) lần đầu tiên có khả năng mở ra 
một kênh thông tin của cá nhân mình, và hoạt 
động với tư cách không khác gì một nhà báo: tự 
cung cấp, quảng bá, lan truyền những sản phẩm 
mang tính báo chí của mình ra cộng đồng. Như 
Gillmor [13] từng nhận xét, web 2.0 đã cho 
công dân cơ hội được làm công việc mà trước 
đây chỉ do nhà báo đảm nhiệm. Các học giả 
truyền thông thống nhất gọi hiện tượng đó là 
“báo chí công dân” (citizen journalism). 
Điểm tốt của báo chí công dân ở Việt Nam, 
cũng như xu hướng chung trên thế giới, là nó 
cung cấp thông tin đa chiều hơn cho độc giả, 
tạo thêm gia vị cho môi trường truyền thông-
báo chí nước nhà. Vai trò của báo chí công dân, 
điển hình nhất là blog, là cung cấp sân chơi để 
công dân được quyền đưa ra những ý kiến cá 
nhân của mình, đóng góp tích cực vào quá trình 
thảo luận về những vấn đề chung của xã hội. 
Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp báo 
chí công dân đã hỗ trợ tốt cho báo chí truyền 
thống, sử dụng hiệu quả mạng lưới của mình để 
cung cấp những thông tin đúng sự thật và cần 
thiết cho công chúng. Qua thông tin của báo chí 
công dân, nhiều hành vi sai trái của các tổ chức, 
cá nhân đã bị lôi ra ánh sáng, giúp cho báo chí 
chính thống và cả chính quyền vào cuộc để xử 
lý các sai phạm. Điển hình gần đây có vụ sai 
phạm trong quản lý đất đai tại Tiên Lãng, Hải 
Phòng, khi chính quyền xã tịch thu đất đai sai 
quy định của gia đình ông Đoàn Văn Vươn. Sau 
khi vụ việc diễn ra, một số blogger (trong đó có 
những người đang công tác cho các tòa soạn 
lớn) đã đưa ra những bằng chứng cho thấy dấu 
hiệu sai phạm của chính quyền địa phương. Sau 
đó, các tờ báo lớn đồng loạt điều tra và vạch 
trần sự việc trước công luận. Nhờ nhận được 
thông tin kịp thời, sự việc đã được cơ quan 
chức năng xử lý đúng người đúng tội, mang lại 
niềm tin cho người dân. 
Ngoài ra, báo chí công dân với thế mạnh 
của nó là mạng lưới sâu rộng, tính tương tác rất 
cao (đặc biệt là Facebook), thúc đẩy nhiều hơn 
tranh luận xã hội. Đây là một điều tốt, bởi chỉ 
thông qua tranh luận thì hiệu quả của thông tin 
mới được kiểm chứng. Nó cũng khiến người 
dân trở nên quan tâm hơn đến tình hình kinh tế-
chính trị-xã hội, và qua đó thực hiện được 
nguyên tắc dân chủ: “Dân biết, dân làm, dân bàn, 
dân kiểm tra” do Đảng và nhà nước ta đề ra. 
Tuy vậy, báo chí công dân cũng có những 
mặt hạn chế. Thứ nhất, đó là nó không bị kiểm 
soát, không bị ràng buộc bởi các quy chuẩn 
hoạt động như các tờ báo chính thống, và do 
vậy thông tin được đăng tải lên phần lớn là 
không được kiểm chứng. Điều này tạo ra một 
“rủi ro đạo đức” cho các blogger, khi họ sẵn 
sàng đăng những thông tin chưa được kiểm 
chứng, hoặc sai sự thật, để phục vụ cho mục 
đích riêng của mình. Thứ hai, với một nền báo 
chí đang phát triển thì tình trạng dư thừa thông 
tin diễn ra khá phổ biến, và Việt Nam cũng 
không phải là ngoại lệ. Cộng với sự xuất hiện 
N.K. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 12-19 
18 
của báo chí công dân, công chúng bị lâm vào 
tình trạng “bội thực thông tin,” khiến cho sự 
quan tâm đến các vấn đề hệ trọng bị giảm sút 
nhanh chóng, làm tổn hại đến quyền làm chủ 
của nhân dân cũng như sự tiến bộ của xã hội. 
4. Kết luận 
Trong vài năm vừa qua, truyền thông xã hội 
thực sự đã tạo ra những biến đổi mạnh mẽ trong 
nền báo chí Việt Nam. Không chỉ khiến báo chí 
tiếp cận được với nhiều người đọc hơn, truyền 
thông xã hội còn góp phần giúp báo chí cải 
thiện chất lượng nội dung, nâng cao cải tiến về 
công nghệ, đáp ứng được nhu cầu thông tin 
ngày càng tăng của người đọc. 
Mạng xã hội cũng làm tăng cường khả năng 
tương tác giữa tòa soạn và độc giả, giúp độc giả 
nắm vai trò giám sát và kiểm định chất lượng 
các sản phẩm báo chí. Hơn nữa, sự xuất hiện 
của báo chí công dân cũng hỗ trợ báo chí chính 
thống rất nhiều trong việc phát hiện ra những 
vấn đề quan trọng với công chúng. 
Tuy vậy, mạng xã hội cũng có những mặt 
tiêu cực. Đầu tiên, nó là một trong những nhân 
tố làm góp phần đẩy nhanh hiện tượng “lá cải hóa” 
báo chí ở nước ta. Thêm vào đó, mạng xã hội với 
những thông tin không được kiểm chứng, sự thật 
bị bóp méo, hay những tin đồn vô căn cứ cũng 
làm cho môi trường thông tin bị nhiễu loạn. 
Một phần lý do của các hiện tượng tiêu cực 
trên là do chúng ta còn thiếu những cơ chế quản 
lý mạng xã hội hiệu quả. Mạng xã hội xuất hiện 
ở nước ta từ năm 2004-2005, nhưng phải đến 
năm 2008 thì văn bản pháp luật đầu tiên đề cập 
đến nó mới được ban hành (Nghị định 97 NĐ-
CP ban hành năm 2008) [14]. Từ “mạng xã hội” 
chính thức được đề cập đến ở nghị định 72 TT-
CP ban hành vào tháng 7, 2013. Đây có thể coi 
là một sự chậm trễ về mặt chính sách, bởi 
những biến đổi trong môi trường internet, đặc biệt 
là mạng xã hội, diễn ra rất nhanh nhưng có tác 
động cực kì to lớn đến đời sống của công chúng. 
Chính vì vậy, nghiên cứu về truyền thông 
xã hội (hay mạng xã hội) cần phải được đẩy 
mạnh hơn nữa để tạo ra nền tảng thông tin và 
kiến thức vững chắc cho nhà nước tạo lập ra 
những chính sách quản lý hợp lý hơn, cho các 
tòa soạn đề ra phương hướng phát triển bền 
vững hơn, và cho các tổ chức, cá nhân, cũng 
như công chúng sử dụng công cụ truyền thông 
xã hội tốt hơn, hiệu quả hơn, phục vụ cho lợi 
ích chung của cả cộng đồng. 
Các ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến 
báo chí không chỉ là hiện tượng ở Việt Nam mà 
còn là khắp nơi trên thế giới. Các quốc gia 
thường có cách xử lý vấn đề này khác nhau tùy 
thuộc vào điều kiện của mỗi nước. Các nước thị 
trường tự do như Anh và Mỹ hầu như không có 
sự can thiệp về chính sách nào đế mạng xã hội, 
và để cho các tổ chức báo chí tự điều tiết. Trong 
khi một số nước như Trung Quốc quản lý rất 
chặt chẽ, với nhiều cơ quan khác nhau điều tiết 
hoạt động của mạng xã hội. 
Với điều kiện chính trị-xã hội nhất định của 
Việt Nam, tác giả khuyến nghị các nhà làm 
chính sách cần phải để ý nhiều hơn đến sự phát 
triển của mạng xã hội. “Để ý” không có nghĩa 
là kìm kẹp quá chặt, không cho nó điều kiện 
phát triển (vì như vậy là đi ngược lại xu hướng 
toàn cầu hóa của thế giới), mà là hạn chế những 
ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với báo chí cũng 
như công chúng nói chung. Điều này có thể 
thực hiện được bằng việc xây dựng một hành 
lang pháp lý cụ thể để điều chỉnh các hành vi 
trên mạng xã hội. Một cộng đồng với hơn 30 
triệu người tham gia như mạng xã hội, nếu 
không có cơ chế quản lý đúng đắn sẽ dễ dẫn 
đến những tác hại tiêu cực. Tất nhiên vai trò 
quan trọng nhất trong việc hạn chế những ảnh 
hưởng tiêu cực của mạng xã hội đối với báo chí 
thuộc về chính các cơ quan báo chí. Thực tế các 
N.K. Giang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 31, Số 1 (2015) 12-19 19
nền báo chí phát triển ở châu Âu và Mỹ cho 
thấy, báo chí truyền thống phải tích cực tương 
tác nhiều hơn nữa với mạng xã hội mới không 
bị bỏ lại trong kỷ nguyên số. Thêm vào đó, báo 
chí cần phải đảm bảo chất lượng, nâng cao tính 
chính xác, kịp thời, bổ ích của thông tin. Thực 
tế cho thấy mạng xã hội có tốc độ đưa tin và lan 
truyền nhanh, nhưng khi cần những nguồn tin 
đáng tin cậy, công chúng vẫn tìm đến báo chí 
truyền thống. Điều đó khẳng định báo chí truyền 
thống luôn có chỗ đứng vững chắc trong xã hội, 
vấn đề là phải biết thích nghi như thế nào trong 
hoàn cảnh mới. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Globe, Gordon, The history of social networking. 
Tạp chí Digital Trend. 
of-social-networking/. Truy cập ngày 22/11/2013 
[2] Kaplan, Andreas M., and Michael Haenlein. Users 
of the world, unite! The challenges and 
opportunities of Social Media. Business 
horizons 53.1 (2010): 59-68. 
[3] Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Nghị định 
Về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và 
thông tin điện tử trên mạng Số: 72/2013/NĐ-CP. 
[4] Murthy, Dhiraj, Towards a Sociological 
Understanding of Social Media: Theorizing 
Twitter. Sociology 2012 46: 1059. 
[5] Trung Tâm Internet Việt Nam VNNIC. Sách trắng 
tài nguyên internet Việt Nam. 
[6] Quinn, Stephen. The power of the blog in 
Vietnam. Trong Social media and Politics: Online 
Social networking and Political Communication 
in Asia, konrad-Adenauer-Stiftung, 2010. 
[7] Báo Quân Đội Nhân Dân 10 sự kiện CNTT-VT 
Việt Nam nổi bật năm 2006. 
VN/61/6984/print/Default.aspx. truy cập ngày 
22/11/2013. 
[8] Số liệu từ hãng nghiên cứu thị trường Social 
Baker (2012) và (2013). 
[9] Castells, M. Communication, power and counter-
power in the network society. International 
journal of communication, 1(1), 238-266. 
[10] Deuze, Mark . Popular journalism and 
professional ideology: tabloid reporters and 
editors speak out. Trong Media Culture & Society 
2005 27: 861. 
[11] Örnebring, Henrik & Jönsson, Anna Maria 
Tabloid journalism and the public sphere: a 
historical perspective on tabloid journalism.Trong 
Journalism Studies, Volume 5, Number 3, 2004, 
pp. 283–295. 
[12] Nguyễn Linh Khiếu . Trách nhiệm xã hội của báo 
chí Việt Nam hiện nay. Tạp Chí Triết Học số 6 
(217). Tháng 6-2009. 
[13] Gillmor, Dan. We the Media: grassroots 
journalism by the people, for the people. 
Sebastopol, CA: O’Reilly. (2006) 
[14] Nghị Định Về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ 
Internet và thông tin điện tử trên Internet Số: 
97/2008/NĐ-CP. 
The Impacts of Social Media on the Journalism Landscape 
in Vietnam 
Nguyễn Khắc Giang 
Aarhus University (Denmark) and City University London (UK) 
Abstract: The author sketches the penetration process of social media into Vietnam’s society 
since 2000s, accordingly analyzes its impacts on Vietnam’s journalism landscape. The results are 
mixed: social media contributes both positively and negatively to the journalism development in 
Vietnam, which then requires all parties in Vietnam’s media environment to have a more in-depth 
understanding on the issues that it raises. 
Keywords: Social media, citizen journalism, tabloidization, Vietnam journalism landscape. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_truyen_thong_xa_hoi_den_moi_truong_bao_chi_vie.pdf