Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển

Minh bạch trong khu vực công luôn là vấn đề được nhiều đối tượng quan

tâm từ công chúng, các nhà làm chính sách đến các học giả, đặc biệt trong

bối cảnh các nước tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn về chính trị, kinh tế, tài

chính như hiện nay (Jorge et al., 2011). Bài viết này giới thiệu tổng quan

nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công ở các nước phát triển, qua đó

phác họa xu hướng nghiên cứu và xác định những khe hở còn tồn tại nhằm

định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo về chủ đề này.

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển trang 1

Trang 1

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển trang 2

Trang 2

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển trang 3

Trang 3

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển trang 4

Trang 4

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển trang 5

Trang 5

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 4280
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công tại các nước phát triển
g mà còn
gồm cả lĩnh vực doanh nghiệp, dân
cư và xã hội, đấu thầu hợp đồng
dịch vụ, phát triển đô thị/công trình
công cộng. Chỉ số TI-Spain 2010
được sử dụng để đo lường mức độ
minh bạch của 110 chính quyền địa
phương Tây Ban Nha. Kết quả cho
thấy dân số, thị trưởng cánh tả có
ảnh hưởng tích cực, trong khi loại
đô thị, lãnh đạo địa phương với đa
số cánh hữu và hoạt động du lịch
lại tác động tiêu cực đến mức độ
minh bạch tổng thể của chính
quyền địa phương. Ngoài ra, thặng
dư ngân sách tác động tích cực và
thâm hụt ngân sách tác động tiêu
cực đến minh bạch hợp đồng dịch
vụ; tỷ lệ thất nghiệp và người cao
tuổi cũng có liên quan trong trường
hợp minh bạch tài chính. Nhìn
chung, các nhân tố có sự tác động
nhất quán đến mức độ minh bạch
trong từng lĩnh vực.
Alcaraz-Quiles et al. (2015)
nghiên cứu về thực trạng công khai
thông tin bền vững của chính quyền
địa phương Tây Ban Nha. Dựa trên
61 nội dung iên quan đến vấn đề
bền vững đề xuất bởi GRI gồm:
thông tin chung, kinh tế, xã hội, và
môi trường, tác giả đã phân tích nội
dung website của 55 thị trấn, thành
phố lớn và nhận thấy rằng thông tin
xã hội được công khai nhiều nhất
trong khi thông tin môi trường lại
rất khan hiếm. Tác giả cũng kiểm
định quan hệ giữa mức độ công
khai thông tin bền vững với 13 nhân
tố kinh tế - xã hội, tài chính và dân
số. Kết quả cho thấy dân số phụ
thuộc có tác động tích cực rất mạnh
đến công khai thông tin bền vững ở
phạm vi tổng thể lẫn thông tin
chung, thông tin kinh tế và xã hội;
trong khi tự chủ tài chính tác động
tích cực đến công khai thông tin
môi trường còn áp lực tài chính tác
động tiêu cực đến công khai thông
tin chung và thông tin xã hội ngược
lại với những giải thích của lý
thuyết hợp pháp. 
Bearfield và Bowman (2016) đã
kiểm định sự ảnh hưởng 5 nhân tố:
nguồn lực chính quyền, cạnh tranh
chính trị, năng lực quản lý hành
chính, nhu cầu của cộng đồng và
mạng lưới tổ chức đến mức độ
minh bạch trên website của 217
thành phố ở bang Texas – Mỹ. Mức
độ minh bạch của thành phố được
xác định bằng tổng giá trị của 21 chỉ
số được phát triển bởi Dự án thành
quả chính phủ (GPP) thuộc 4 lĩnh
vực: tài chính và ngân sách, nguồn
nhân lực, tài sản vật chất, quản trị
hành chính tổng hợp. Qua phân tích
thực nghiệm, tác giả nhận thấy
thông tin liên quan đến tài chính-
ngân sách và quản trị hành chính
tổng hợp được phổ biến rộng rãi và
dễ tiếp cận trên website thành phố
hơn thông tin về nguồn nhân lực.
Nhu cầu của cộng đồng và mạng
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/201944
Nghiên cứu trao đổi
lưới tổ chức đóng một vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy tính minh
bạch, bất kể quy mô thành phố.
Ngoài ra, sự tác động của các nhân
tố còn lại cũng khác biệt đáng kể
giữa thành phố lớn và nhỏ: minh
bạch ở thành phố lớn được thúc đẩy
bởi cạnh tranh chính trị; trong khi ở
thành phố nhỏ, minh bạch chịu ảnh
hưởng bởi nguồn lực chính quyền
và năng lực quản lý hành chính.
Sự phát triển của truyền thông
xã hội đã mang lại cơ hội mới cho
các cơ quan chính quyền nhằm tăng
cường hơn nữa tính minh bạch và
trách nhiệm giải trình không chỉ
trên website chính thức mà còn có
thể thông qua các công cụ truyền
thông xã hội. Ngày càng có nhiều
cơ quan chính quyền sử dụng các
ứng dụng truyền thông xã hội như
Facebook, Twitter... để thực hiện
mục đích minh bạch. Nghiên cứu
của Guillamón et al. (2016) là một
trong những nghiên cứu đầu tiên về
vấn đề này. Với mục tiêu phân tích
các nhân tố tác động đến mức độ sử
dụng Facebook để công khai thông
tin bởi 217 chính quyền thành phố
ở Ý và Tây Ban Nha, tác giả đã xây
dựng chỉ số tổng hợp (i) số lượng
bài đăng và (ii) số lượng bài chia sẻ
bởi chính quyền thành phố trên
trang Facebook chính thức của họ;
sau đó, kiểm định sự tác động của
các nhóm nhân tố kinh tế- xã hội,
tài chính, chính trị ảnh hưởng đến
mức độ công khai điện tử trên
phương tiện truyền thông xã hội.
Kết quả cho thấy sự tham gia trực
tuyến của người dân, quy mô dân
số, mức thu nhập của người dân và
mức độ nợ của thành phố có tác
động đến việc sử dụng Facebook
của chính quyền thành phố, tuy
nhiên tác động của mức thu nhập
và mức độ nợ là ngược chiều.
Nhận xét
Minh bạch trong khu vực công
từ lâu đã nhận được sự quan tâm từ
phía các nhà nghiên cứu hàn lâm.
Ban đầu, nghiên cứu về minh bạch
hướng vào lĩnh vực kế toán – tài
chính. Sau khi những bộ quy tắc và
hướng dẫn thực hành minh bạch
quốc tế (như Hướng dẫn thực hành
báo cáo bền vững của GRI (2005),
Quy tắc và hướng dẫn thực hành
minh bạch tài khóa của IMF
(2007)) và các bộ chỉ số minh bạch
quốc tế (như TI-Spain, OBI) ra đời,
hướng nghiên cứu chuyển sang
thông tin ngân sách, thông tin xã
hội, thông tin bền vững và thông tin
nhà nước khác. Mặt khác, cùng với
sự phát triển của công nghệ thông
tin và các quan hệ tương tác xã hội,
phương tiện báo cáo/công khai
thông tin cũng có sự thay đổi. 
Từ các báo cáo thường niên
được in ấn trên giấy (bản cứng),
các đơn vị công chuyển sang công
khai thông tin trên website chính
thức để tạo điều kiện tiếp cận thông
tin cho người dân và hiện tại, ngày
càng nhiều đơn vị công sử dụng
phương tiện truyền thông xã hội để
công khai thông tin, tăng cường
khả năng tương tác và cải thiện
quan hệ giữa chính quyền với dân
chúng hơn nữa.
Phần lớn nghiên cứu về minh
bạch trong khu vực công tiếp cận
thông tin ở cấp chính quyền địa
phương và được tiến hành chủ yếu
ở các quốc gia phát triển (như Mỹ,
New Zealand, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Ý, Thụy Điển, Trung
Quốc) chứ chưa đặt mối quan tâm
vào các quốc gia đang hoặc chậm
phát triển. Một số ít nghiên cứu
được thực hiện ở cấp chính quyền
trung ương trên phạm vi quốc tế.
Mặt khác, hầu hết nghiên cứu về
minh bạch đều sử dụng dữ liệu
trong một khoảng thời gian nhất
định (1 năm), rất ít nghiên cứu sử
dụng dữ liệu chuỗi thời gian (nhiều
năm). Có thể thấy nghiên cứu về
minh bạch trong khu vực công trên
phạm vi quốc tế hay trong một
chuỗi thời gian dài sẽ khó thực hiện
nếu không kế thừa kết quả của
những nghiên cứu trước hoặc dữ
liệu không có sẵn.
Thang đo minh bạch sử dụng
trong các nghiên cứu chủ yếu do tác
giả tự thiết kế dựa vào các nghiên
cứu trước, các quy tắc và hướng dẫn
thực hành minh bạch quốc tế kết
hợp với quan điểm/hiểu biết thực tế
của bản thân; hoặc tận dụng các chỉ
số minh bạch quốc tế có sẵn. Hai
đặc tính quan trọng của minh bạch
thường xuyên được nhấn mạnh
trong đo lường là Tính sẵn có và
Khả năng tiếp cận. Rất ít nghiên
cứu đưa chất lượng thông tin vào
như một đặc tính bắt buộc. Phần lớn
đều xem chất lượng thông tin là một
đặc tính cần để nâng cao tính minh
bạch nhưng rất khó để đo lường và
việc bỏ qua đặc tính này trong thang
đo minh bạch của hầu hết nghiên
cứu được xem như một hạn chế.
Khá nhiều nhân tố có khả năng
giải thích cho mức độ minh bạch
của các cấp chính quyền đã được
nhận diện, gồm các nhân tố chính
trị (cạnh tranh, hệ tư tưởng, liên
minh, tham gia chính trị); các
nhân tố kinh tế - xã hội (dân số, thu
nhập, trình độ học vấn, tuổi tác, tỷ
lệ thất nghiệp; các nhân tố tài
chính (tự chủ tài chính, hỗ trợ từ
cấp trên, nợ công, thuế, thặng
dư/thâm hụt ngân sách); các
nhân tố tổ chức (cấp chính
quyền/loại đô thị, quyền bổ nhiệm,
lựa chọn nhân viên, văn hóa quản
lý hành chính) và các nhân tố
khác như quan sát của báo chí, sự
thâm nhập của Internet Các nhân
tố được tìm thấy gồm cả nhân tố từ
phía cung thông tin lẫn nhân tố từ
phía cầu thông tin.
Việc kiểm định quan hệ giữa
các nhân tố với mức độ minh bạch
của chính quyền các cấp chủ yếu
dựa vào kỹ thuật hồi quy đa biến.
Kết quả kiểm định cho thấy sự tác
động của các nhân tố đến mức độ
minh bạch là không nhất quán giữa
các nghiên cứu. Dẫn chứng như
quy mô được kết luận là nhân tố tác
động tích cực đến minh bạch trong
rất nhiều nghiên cứu như Styles &
Tennyson (2007), Serrano-Cinca et
al. (2009), Yu (2010), Jorge et al.
(2011), Tagesson et al. (2011), Ríos
et al. (2013), Sol (2013), Guil-
lamón et al. (2016), nhưng trong
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/2019 45
Nghiên cứu trao đổi
nghiên cứu của Ingram (1984),
Caamaño-Alegre et al. (2013), Al-
caraz-Quiles et al. (2015) quan hệ
này lại không được tìm thấy. Sự
khác biệt trong kết quả nghiên cứu
nêu trên đã được Rodríguez Bolí-
var et al. (2013) giải thích bởi các
biến điều tiết (phương tiện công
khai, văn hóa quản lý hành chính,
cấp chính quyền và thang đo các
nhân tố tác động) bằng kỹ thuật
phân tích tổng hợp dựa vào dữ liệu
của các nghiên cứu trước. Tuy
nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có tác
giả nào giải thích thêm cho quan hệ
điều tiết này bằng một nghiên cứu
thực nghiệm cụ thể.
Kết luận
Nghiên cứu về minh bạch trong
khu vực công đã trải qua quá trình
phát triển với những thay đổi đáng
kể trong lĩnh vực minh bạch cũng
như phương tiện truyền thông.
Ban đầu, nghiên cứu thường tập
trung vào thông tin của chính
quyền ở cấp quốc gia (Sol, 2013).
Gần đây, các học giả bắt đầu quan
tâm nhiều hơn đến thông tin của
chính quyền địa phương do sự
tham gia ngày càng gia tăng của
chính quyền địa phương vào các
chính sách công, cùng với những
thay đổi đáng kể trong cách thức
chính quyền đó hoạt động đã thu
hút sự quan tâm của các bên liên
quan về việc chính phủ làm gì, làm
thế nào và với giá bao nhiêu (Caa-
maño-Alegre et al., 2013). 
Mặc dù các mô hình và kết quả
nghiên cứu trước đây đã đóng góp
những hiểu biết thú vị về các nhân
tố ảnh hưởng đến tính minh bạch
của chính quyền các cấp (Sol,
2013) nhưng kết quả nghiên cứu
vẫn còn thiếu nhất quán ở một số
nhân tố (Laswad et al., 2005). Mặt
khác, nghiên cứu về minh bạch
trong khu vực công chủ yếu được
tiến hành ở các nước phát triển.
Còn ở các nước đang hoặc chậm
phát triển, với mức độ tham nhũng
trong khu vực công khá phổ biến
và nghiêm trọng (Rose-Ackerman,
1999 trích trong Chan, 2006), chủ
đề này vẫn chưa nhận được sự quan
tâm thích đáng. 
Theo Caba Pe´rez và cộng sự
(2008), nghiên cứu về các nhân tố
tác động đến minh bạch trong khu
vực công ở nhiều quốc gia khác
nhau và tiến tới so sánh quốc tế là
rất hữu ích để tăng cường hiểu biết
thực tiễn về vấn đề này; từ đó phát
triển một mô hình dự báo tổng hợp
cho minh bạch thông tin của khu
vực công. Rõ ràng, vẫn còn rất
nhiều việc phải làm để gia tăng sự
hiểu biết về những động cơ và
những rào cản liên quan đến tính
minh bạch của chính quyền các cấp
(Sol, 2013). 
Tài liệu tham khảo
Alcaraz-Quiles, F. J., Navarro-Galera,
A., & Ortiz-Rodriguez, D. (2015). Factors
determining online sustainability reporting
by local governments. International Review
of Administrative Sciences, 81(1), 79-109.
Armstrong, E. (2005). Integrity, trans-
parency and accountability in public admin-
istration: Recent trends, regional and
international developments and emerging
issues. United Nations, Department of Eco-
nomic and Social Affairs, 1-10.
Bearfield, D. A., & Bowman, A. O. M.
(2016). Can you find it on the web? An as-
sessment of municipal e-government trans-
parency. The American Review of Public
Administration, 47(2), 172-188. 
Bovens, M. (2007). Analysing and As-
sessing Accountability: A Conceptual
Framework. European Law Journal, 13(4),
447-468.
Caamaño-Alegre, J., Lago-Peñas, S.,
Reyes-Santias, F., & Santiago-Boubeta, A.
(2013). Budget transparency in local gov-
ernments: an empirical analysis. Local Gov-
ernment Studies, 39(2), 182-207.
Caba Pérez, C., Pedro Rodríguez Bolí-
var, M., & López Hernández, A. M. (2008).
e-Government process and incentives for
online public financial information. Online In-
formation Review, 32(3), 379-400.
Chan, J. L. (2006). IPSAS and govern-
ment accounting reform in developing coun-
tries. Accounting reform in the public sector:
mimicry, fad or necessity, 31-42.
Da Cruz, N. F., Tavares, A. F., Marques,
R. C., Jorge, S., & de Sousa, L. (2015).
Measuring local government transparency.
Public Management Review, 18(6), 866-893.
Guillamón, M. D., Ríos, A. M., Gesuele,
B., & Metallo, C. (2016). Factors influencing
social media use in local governments: The
case of Italy and Spain. Government Infor-
mation Quarterly, 33(3), 460-471.
Ingram, R. W. (1984). Economic incen-
tives and the choice of state government ac-
counting practices. Journal of Accounting
Research, 126-144.
Jorge, S., Sa, P. M., Pattaro, A. F., &
Lourenço, R. P. (2011, June). Local govern-
ment financial transparency in Portugal and
Italy: A comparative exploratory study on its
determinants. In 13th Biennial CIGAR con-
ference, bridging public sector and non-
profit sector accounting (pp. 9-10).
Kickert, W. (2012). State responses to
the fiscal crisis in Britain, Germany and the
Netherlands. Public Management Review,
14, 299-309.
Laswad, F., Fisher, R., & Oyelere, P.
(2005). Determinants of voluntary Internet
financial reporting by local government au-
thorities. Journal of Accounting and Public
Policy, 24(2), 101-121.
Lee, G., & Kwak, Y. H. (2012). An open
government maturity model for social medi-
abased public engagement. Government In-
formation Quarterly, 29, 492-503.
Piotrowski, S. J., & Van Ryzin, G. G.
(2007). Citizen attitudes toward transparency
in local government. American Review of
Public Administration, 37(3), 306-323.
Ríos, A. M., Benito, B., & Bastida, F.
(2013). Determinants of central government
budget disclosure: an international compar-
ative analysis. Journal of Comparative Pol-
icy Analysis: Research and Practice, 15(3),
235-254.
Rodríguez Bolívar, M. P., Alcaide
Muñoz, L., & López Hernández, A. M.
(2013). Determinants of financial trans-
parency in government. International Public
Management Journal, 16(4), 557-602.
Serrano-Cinca, C., Rueda-Tomás, M., &
Portillo-Tarragona, P. (2009). Factors influ-
encing e-disclosure in local public adminis-
trations. Environment and planning C:
Politics and Space, 27(2), 355-378.
Sol, D. A. D. (2013). The institutional,
economic and social determinants of local
government transparency. Journal of Eco-
nomic Policy Reform, 16(1), 90-107.
Styles, A. K., & Tennyson, M. (2007).
The accessibility of financial reporting of US
municipalities on the Internet. Journal of
Public Budgeting, Accounting & Financial
Management, 19(1), 56-92.
Tagesson, T., Klugman, M., & Ekström,
M. L. (2011). What explains the extent and
content of social disclosures in Swedish mu-
nicipalities’ annual reports. Journal of Man-
agement & Governance, 17(2), 217-235. 
Tejedo-Romero, F., & de Araujo, J. F. F.
E. (2015). Determinants of local govern-
ments’ transparency in times of crisis: evi-
dence from municipality-level panel data.
Administration & society, 50(4), 527-554. 
Yu, H. (2010, August). On the determi-
nants of internet-based disclosure of gov-
ernment financial information. In 2010
International Conference on Management
and Service Science (pp. 1-4). IEEE.
Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/201946
Nghiên cứu trao đổi

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_nghien_cuu_ve_minh_bach_trong_khu_vuc_cong_tai_cac.pdf