Xây dựng thẻ điểm cân bằng bền vững tại các doanh nghiệp khai khoáng Bình Định
Thẻ điểm cân bằng bền vững là công cụ quản lý chiến lược bền vững, thực
hiện trách nhiệm môi trường, xã hội của doanh nghiệp. Thẻ điểm cân bằng
cung cấp khuôn khổ tích hợp các khía cạnh kinh tế, môi trường, xã hội thành
một hệ thống quản lý duy nhấtmang lại thành công cho doanh nghiệp.
Khai khoáng là ngành công nghiệp nhạy cảm với môi trường theo quyết
định số 04/2012/QĐ-BTNMT.Vì vậy, sử dụng thẻ điểm cân bằng bền vững
vào quản trị chiến lược bền vững trong các doanh nghiệp khai khoáng là hết
sức cần thiết. Điều này giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu các bên liên
quan và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập. Sử dụng
phương pháp nghiên cứu định tính, tác giả xây dựng thể điểm cân bằng bền
vững cho các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình
Định.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng thẻ điểm cân bằng bền vững tại các doanh nghiệp khai khoáng Bình Định
c nghiên cứu trên thế giới đã trình bày khuôn khổ SBSC bằng nhiều cách tích hợp khía cạnh môi trường, xã hội vào BSC (Epstein và Wisner, 2001; Figge và cộng sự, 2002;Moller và Schaltegger, 2005; Hubbard, 2009; Butler và cộng sự, 2011; Hsu và cộng sự, 2011; Rab- bani và cộng sự, 2014; Journeault, 2016; Hansen và Schaltegger, 2016). Nhìn chung, có ba cách tiếp cận để hình thành khuôn khổ SBSC từ BSC (Figge và cộng sự, 2002; Butler và cộng sự, 2011; Journeault, 2016). Thứ nhất, tích hợp khía cạnh môi trường và xã hội vào bốn quan điểm của BSC truyền thống. Khuôn khổ này của SBSC không có thay đổi lớn đối với cấu trúc BSC vì các khía cạnh môi trường và xã hội được tích hợp theo chuỗi nguyên nhân, kết quả vào bốn quan điểm hiện có của BSC. Đây là cách tiếp cận toàn diện, vấn đề bền vững được tích hợp triệt để trong bốn quan điểm của BSC truyền thống. Khi đó, các mục tiêu bền vững phải thay thế các mục tiêu kinh tế hiện tại hoặc mỗi quan điểm phải mở rộng với nhiều thước đo phù hợp hơn (Hub- bard, 2009). Quan điểm tài chính từ trọng tâm duy nhất về lợi nhuận tài chính được mở rộng đến ba khía cạnh phát triển bền vững. Theo Journeault (2016), quan điểm tài chính thông thường được mở rộng thành quan điểm hiệu quả bền vững bằng cách tích hợp thêm hiệu quả môi trường và hiệu quả xã hội. Theo Wu và Haasis (2011), quan điểm bền vững thay cho quan điểm tài chính bằng cách kết hợp bền vững sinh thái, quyền con người và hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, SBSC nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng các bên liên quan bởi quản lý các bên liên quan là một yếu tố trung tâm của hiệu quả bền vững. Quan điểm khách hàng trong BSC truyền thống được mở rộng thành quan điểm các bên liên quan bằng cách bổ sung các bên liên quan quan trọng khác như: tổ chức tài chính, cộng đồng dân cư, tổ chức môi trườngCác bên liên quan trong quan điểm này phụ thuộc vào hoạt động tương tác với DN và ảnh hưởng đến chiến lược bền vững của DN. Mục tiêu của quan điểm này là tập trung vào nhu cầu và sự hài lòng của các bên liên quan. Tiếp theo, quan điểm quy trình kinh doanh nội bộ trong BSC truyền thống được mở rộng bằng cách tích hợp mối quan tâm, tư duy môi trường và xã hội vào quản lý toàn bộ chuỗi giá trị, từ khai thác tài nguyên đến thu hồi sản phẩm và xử lý sản phẩm vào cuối chu kỳ sống. Quy trình này hướng đến cung cấp sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng xanh và có ý thức xã hội trong khi cải thiện hiệu quả môi trường, xã hội và kinh tế (Journeault, 2016). Cuối cùng, quan điểm học hỏi và tăng trưởng với sự kết hợp nguốn vốn tổ chức, con người và thông tin là cần thiết để hỗ trợ quan điểm quy trình kinh doanh nội bộ. Trong bối cảnh của một chiến lược bền vững, theo Journeault (2016) thì quan điểm này là sự kết hợp giữa kỹ năng nhân viên, công nghệ và thông tin. Kỹ năng nhân viên là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công chiến lược bền vững của DN. Các DN cần áp dụng các công nghệ xanh, giảm tác động tiêu cực của sản phẩm hoặc dịch vụ đối với môi trường và xã hội. Về thông tin đó là khả năng tiếp thu, phân tích và chia sẻ thông tin trong DN thông qua cơ sở dữ liệu, hệ Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/201956 Nghiên cứu trao đổi thống thông tin, mạng và cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (Journeault, 2016). Thứ hai, bổ sung quan điểm thứ năm vào cấu trúc BSC truyền thống. Những đặc điểm đặc biệt của các khía cạnh môi trường và xã hội sẽ trở nên rõ ràng hơn khi được thể hiện trong một quan điểm riêng liên kết với bốn quan điểm trong BSC truyền thống. Đây là cách tiếp cận đơn giản nhất khi DN muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển bền vững trong chiến lược kinh doanh. Nhiều nghiên cứu trước đã đề xuất các tên gọi khác nhau cho quan điểm thứ năm này, chẳng hạn Figge và cộng sự (2002) giới thiệu một quan điểm phi thị trường liên quan đến khía cạnh môi trường và xã hội ngoài thoả thuận thị trường của DN hay Bieker (2002) đã đề xuất một quan điểm thứ năm trong khuôn khổ SBSC với tên gọi quan điểm xã hội.Hay Sidiropoulos và cộng sự (2004) đã thêm một quan điểm sinh thái thứ năm vào cấu trúc BSC liên quan đến các vấn đề như tiêu thụ năng lượng, chất thải, sử dụng vật liệu, khí thải gây ô nhiễm và đầu ra phi sản phẩm. Tuy nhiên, cách tiếp cận thứ hai này không tích hợp đầy đủ các khía cạnh môi trường và xã hội trong các hoạt động của doanh nghiẹp vì các khía cạnh này được xem xét song song với các khía cạnh khác trong khi chiến lược bền vững yêu cầu xem xét đồng thời các khía cạnh môi trường, xã hội và kinh tế. Thứ ba, phát triển SBSC riêng biệt nghĩa là các khía cạnh môi trường, xã hội sẽ được thể hiện trong một thẻ điểm cân bằng riêng. Tuy nhiên, SBSC riêng biệt gây tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này vì không phù hợp với bản chất toàn diện của tính bền vững (Hubbard, 2009) khi không tích hợp các vấn đề xã hội, môi trường vào các vấn đề kinh tế, không giải quyết được nhu cầu các bên liên quan, làm suy yếu các sáng kiến môi trường, suy yếu cam kết quản lý đến kinh doanh bền vững. Thông qua khảo lược tổng quan nghiên cứu về SBSC, tác giả nhận thấy khuôn khổ SBSC 4 quan điểm được sử dụng phổ biến hơn SBSC 5 quan điểm, chưa có nghiên cứu nào sử dụng SBSC riêng biệt vào thực hành quản lý phát triển bền vững, đánh giá hiệu quả bền vững hay quản lý thông tin môi trường. Ka- plan và Wisner (2009) đã cho thấy dữ liệu môi trường tích hợp trong khuôn khổ SBSC 4 quan điểm hiệu quả hơn vì dữ liệu môi trường trong quan điểm thứ năm không dẫn đến trọng lượng quyết định nhiều hơn cho thông tin đó và có thể dẫn đến xử lý kém hiệu quả do tốn nhiều thời gian hơn. Kết quả tương tự được tìm thấy trong nghiên cứu của Alewine và Stone (2013) khi các mục tiêu quản lý môi trường tốt hơn với SBSC bốn quan điểm vì người tham gia dành ít thời gian hơn cho khuôn khổ này mặc dù dữ liệu môi trường trong SBSC 5 quan điểm được chú ý nhiều hơn. Xây dựng thẻ điểm cân bằng bền vững cho ngành khai khoáng trên địa bàn tỉnh Bình Định Thứ nhất, Về ngành khai khoáng trên địa bàn tỉnh Bình Định Ngành khai khoáng trên địa bàn tỉnh Bình Định được chia thành 5 lĩnh vực kinh doanh, bao gồm: khai thác đá, khai thác cát, khai thác đất san lấp, khai thác titan và khai thác nước nóng thiên nhiên. Đặc điểm chung của ngành khai khoáng là có nhiều tác động tiêu cực đến môi trường và ngành khai khoáng tỉnh Bình Định cũng không ngoại lệ. Vì vậy, cácDN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định chịu áp lực từ nhiều bên liên quan về trách nhiệm môi trường, xã hội, như: các cơ quan nhà nước, khách hàng, cộng đồng địa phương. Hầu hếtcác DN này có quy mô nhỏ và vừa, chiếm tỷ trọng lớn là DN có số lao động dưới 100 người và nguồn vốn từ 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng. Bảng 1: Thẻ điểm cân bằng bền vững của các doanh nghiệp khai khoáng trên địa bàn tỉnh Bình Định (Nguồn: Tác giả xây dựng) Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/2019 57 Nghiên cứu trao đổi Thứ hai, Xây dựng SBSC cho ngành khai khoáng trên địa bàn tỉnh Bình Định Một vài nghiên cứu trên thế giới đã đề cập đến việc xây dựng SBSC. Chẳng hạn,Figge và cộng sự (2002) đưa ra quy trình xây dựng SBSC gồm ba bước, bao gồm: (1) lựa chọn đơn vị kinh doanh chiến lược, (2) xác định các khía cạnh môi trường và xã hội của đơn vị kinh doanh chiến lược, (3) xác định sự liên quan của những khía cạnh này đối với chiến lược của đơn vị kinh doanh chiến lược.Trong khi đó, theo Krstić (2012) thì xây dựng SBSC cần trải qua các bước như sau: (1) xác định sứ mệnh, tầm nhìn của DN hoặc các đơn vị kinh doanh, (2) xác định chiến lược phát triển bền vững của DN hoặc các đơn vị kinh doanh, (3) xác định các quan điểm trong khuôn khổ SBSC, (4) xác định các khía cạnh môi trường, xã hội kết nối với chiến lược phát triển bền vững của DN hoặc các đơn vị kinh doanh, (5) xác định các chỉ số hiệu quả chính trong từng quan điểm để xác định mục tiêu thành công chính, (6) xác định chuỗi nguyên nhân kết quả giữa các quan điểm trong khuôn khổ SBSC, (7) xác định các mục tiêu và các đo lường cần thực hiện và (8) xác định các hành động và chương trình giúp đạt được các mục tiêu đã xác định. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước, tác giả xác lập quy trình xây dựng SBSC cho các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định như sau: Bước 1: Lựa chọn đơn vị kinh doanh. Đối với DN vừa và nhỏ thì đơn vị kinh doanh được đồng nhất với cấp độ DN, trong khi ở các DN lớn thì đơn vị kinh doanh thường được tổ chức theo trung tâm lợi nhuận độc lập. Bước 2: Xác định sứ mệnh, tầm nhìn của đơn vị kinh doanh. Bước 3: Xác định chiến lược phát triển bền vững của đơn vị kinh doanh. Bước 4: Xác định các quan điểm trong khuôn khổ SBSC của đơn vị kinh doanh. Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/201958 Nghiên cứu trao đổi Hình 1: Bản đồ chiến lược bền vững tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định Nghiên cứu trao đổi 59Tạp chí Kế toán & Kiểm toán số tháng 10/2019 Bước 5: Xác định các khía cạnh môi trường và xã hội của đơn vị kinh doanh. Mục tiêu của bước này là xác định danh mục môi trường và xã hội thích hợp và toàn diện với các chiến lược liên quan. Các khía cạnh môi trường phải phù hợp với hoạt động và sản phẩm của đơn vị kinh doanh. Các khía cạnh xã hội liên quan đến một đơn vị kinh doanh có thể được xác định bằng cách thực hiện một khuôn khổ toàn diện phù hợp với các bên liên quan. Các bên liên quan chia thành bên liên quan bên ngoài (khách hàng, cộng đồng địa phương, chính phủ,) và bên liên quan nội bộ (nhân viên, cổ đông). Bước 6: Xác định sự liên quan của những khía cạnh này đối với chiến lược của đơn vị kinh doanh. Đây là bước cốt lõi nhằm chuyển dịch chiến lược kinh doanh vào các mục tiêu và các chỉ số liên quan dựa trên mối quan hệ nhân quả và quy trình phân cấp bắt đầu từ quan điểm tài chính hoặc quan điểm phát triển bền vững. Bước 7: Mô tả chuỗi nguyên nhân kết quả trong khuôn khổ SBSC qua bản đồ chiến lược. Bước 8: Xác định các hành động và chương trình giúp đạt được các mục tiêu đã xác định. Xuất phát từ đặc điểm hoạt động, chiến lược“ hiệu quả “ (giảm chi phí, đạt hiệu quả sinh thái đáp ứng nhu cầu các bên liên quan), tác giả xây dựng SBSC cho các DN khai khoáng trên địa bàn tỉnh Bình Định dựa trên khuôn khổ 4 quan điểm truyền thống nhưng thay đổi quan điểm tài chính, khách hàng thành quan điểm phát triển bền vững và các bên liên quan. Thẻ điểm cân bằng bền vững với các mục tiêu, thước đo cụ thể cho các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định được thể hiện ở Bảng 1, trang 57. Từ đó, tác giả tiếp tục mô tả rõ mối quan hệ nhân quảgiữa các quan điểm trong thẻ điểm cân bằng bền vững thông qua bản đồ chiến lược bền vững ở Hình 1, trang 58. Kết luận Dựa trên sự kế thừa các nghiên cứu trước, tác giả đã xác định các thước đo, mục tiêu cũng như mô tả mối quan hệ nhân quả giữa bốn quan điểm (phát triển bền vững, các bên liên quan, quy trình nội bộ, học hỏi và phát triển) trong thẻ điểm cân bằng bền vững ứng dụng cho ngành khai khoáng tỉnh Bình Định. Kết quả nghiên cứu này có thể là điểm khởi đầu cho các nghiên cứu trong tương lai ở Việt Nam khi mở rộng sang các ngành khác hoặc sử dụng thẻ điểm cân bằng bền vững để đánh giá hiệu quả môi trường trong DN. Tác giả hy vọng các DN khai thác khoáng sản Bình Định nói riêng và các DN nhạy cảm môi trường nói chung sớm sử dụng thẻ điểm cân bằng bền vữngđể đạt được lợi ích to lớn từ quản lý bền vững. Tài liệu tham khảo 1. Alewine, H. C., & Stone, D. N. (2013). How does environmental accounting infor- mation influence attention and investment?. International Journal of Accounting & Infor- mation Management, 21(1), 22-52. 2. Bieker, T. (2002). Managing corpo- rate sustainability with the balanced score- card: Developing a balanced scorecard for integrity management. Oikos PhD summer academy. 3. Butler, J. B., Henderson, S. C., & Rai- born, C. (2011). Sustainability and the bal- anced scorecard: Integrating green measures into business reporting. Manage- ment Accounting Quarterly, 12(2), 1. 4. Epstein, M. J., & Wisner, P. S. (2001). Using a balanced scorecard to implement sustainability. Environmental quality man- agement, 11(2), 1-10. 5. Figge, F., Hahn, T., Schaltegger, S., & Wagner, M. (2002). The sustainability bal- anced scorecard–linking sustainability man- agement to business strategy. Business strategy and the Environment, 11(5), 269-284. 6. Giannoukou, I., & Beneki, C. C. (2018). Towards sustainability performance management system of tourism enterprises: a tourism sustainable balanced scorecard framework. International Journal of Global Environmental Issues, 17(2-3), 175-196. 7. Hansen, E. G., & Schaltegger, S. (2016). The sustainability balanced score- card: A systematic review of architectures. Journal of Business Ethics, 133(2), 193- 221. 8. Hsu, C. W., Hu, A. H., Chiou, C. Y., & Chen, T. C. (2011). Using the FDM and ANP to construct a sustainability balanced score- card for the semiconductor industry. Expert Systems with Applications, 38(10), 12891- 12899. 9. Hubbard, G. (2009). Measuring orga- nizational performance: beyond the triple bottom line. Business strategy and the en- vironment, 18(3), 177-191. 10. Jassem, S., Azmi, A., & Zakaria, Z. (2018). Impact of Sustainability Balanced Scorecard Types on Environmental Invest- ment Decision-Making. Sustainability, 10(2), 541. 11. Journeault, M. (2016). The Inte- grated Scorecard in support of corporate sustainability strategies. Journal of environ- mental management, 182, 214-229. 12. Kaplan, S. E., & Wisner, P. S. (2009). The judgmental effects of manage- ment communications and a fifth balanced scorecard category on performance evalu- ation. Behavioral Research in Accounting, 21(2), 37-56. 13. Krstić, B., Sekulić, V., & Ivanović, V. (2014). How to apply the Sustainability Bal- anced Scorecard concept. Economic Themes, 52(1), 65-80. 14. Möller, A., & Schaltegger, S. (2005). The sustainability balanced scorecard as a framework for eco-efficiency analysis. Jour- nal of Industrial Ecology, 9(4), 73-83. 15. Rabbani, A., Zamani, M., Yazdani- Chamzini, A., & Zavadskas, E. K. (2014). Proposing a new integrated model based on sustainability balanced scorecard (SBSC) and MCDM approaches by using linguistic variables for the performance evaluation of oil producing companies. Expert Systems with Applications, 41(16), 7316-7327. 16. Schaltegger, S., & Wagner, M. (2006). Integrative management of sustain- ability performance, measurement and re- porting. International Journal of Accounting, Auditing and Performance Evaluation, 3(1), 1-19. 17. Wu, J., & Haasis, H. D. (2011, March). Knowledge management-enabled application of the sustainability balanced scorecard. In 2011 Asia-Pacific Power and Energy Engineering Conference (pp. 1-4). IEEE.
File đính kèm:
- xay_dung_the_diem_can_bang_ben_vung_tai_cac_doanh_nghiep_kha.pdf