Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học

Tóm tắt. Bài báo phân tích thực trạng của giảng viên khi sử dụng công nghệ thông tin

trong giảng dạy tại các trường đại học, tiếp đến giới thiệu mô hình lớp học đảo ngược và

phương pháp tiến hành dạy học đảo ngược. Trọng tâm bài báo làm rõ lợi ích của phương

pháp đảo ngược và xác định vai trò của giảng viên và sinh viên trong mô hình lớp học đảo

ngược.

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 1

Trang 1

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 2

Trang 2

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 3

Trang 3

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 4

Trang 4

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 5

Trang 5

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 6

Trang 6

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 7

Trang 7

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 4240
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học

Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường đại học
ong những “cầu nối” cho sự tương tác
giữa GV và SV trong quá trình dạy học. Sử dụng câu hỏi giúp GV không chỉ kiểm tra về kiến thức,
22
Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường Đại học
kĩ năng của SV mà còn thu được những thông tin ngược để điều chỉnh các hoạt động dạy học cho
phù hợp.
Theo phương pháp dạy học truyền thống, dự giờ để đánh giá GV chủ yếu là xem GV dạy thế
nào, các bước dạy ra sao. Trong mô hình “lớp học đảo ngược”, dự giờ đánh giá GV chuyển sang
xem SV do GV hướng dẫn học thế nào? GV đặt câu hỏi thảo luận có phù hợp tương thích với nội
dung bài học không, có phù hợp với khả năng tiếp thu của SV hay không. Ngoài ra đánh giá một
GV lớp học đảo ngược thành công hay không còn phải căn cứ vào cả hệ thống câu hỏi của GV gửi
cho SV khi SV tự học ở nhà. Tất cả sẽ lập nên một quy trình khép kín hệ thống câu hỏi trong một
thể thống nhất liên quan chặt chẽ với nhau.
Có thể so sánh mô hình “lớp học đảo ngược” qua bài giảng văn hiện nay. Giả sử nội dung
bài văn là cuốn tiểu thuyết, GV sẽ yêu cầu SV đọc cuốn tiểu thuyết ở nhà để hiểu cốt truyện, phân
tích chủ đề của cuốn tiểu thuyết theo bộ câu hỏi của GV. Thời gian đến lớp được dành cho việc
GV hướng dẫn thảo luận theo câu hỏi nhằm khám phá biểu tượng hoặc các ý nghĩa chủ đề cuốn
tiểu thuyết. Mô hình “lớp học đảo ngược” cũng tương tự. Về bản chất câu hỏi cho SV nghiên cứu
ở nhà “để hiểu cốt truyện” khác câu hỏi SV thảo luận ở lớp “nhằm khám phá biểu tượng hoặc các
ý nghĩa chủ đề cuốn tiểu thuyết”.
2.3. Xây dựng quy trình thực hiện “lớp học đảo ngược”
Từ [1] ta có mô hình lớp học đảo ngược như hình 2. Từ sơ đồ này, có thể xây dựng quy trình
cụ thể như sau:
Hình 2. Các bước thực hiện lớp học đảo ngược của SV
Bước 1: Trước giờ học trên lớp.
GV: Tạo 1 video bài giảng:
Thứ nhất, sử dụng một máy ảnh để ghi lại video bài giảng theo cách “truyền thống” (ghi âm
cách GV giải thích một khái niệm).
Thứ hai, sử dụng ứng dụng chụp ảnh màn hình để ghi lại những gì xảy ra trên màn hình,
kèm theo bình luận của GV.
Thứ ba, sử dụng phần mềm thuyết trình (như Keynote hoặc PowerPoint) để tạo ra một buổi
thuyết trình bao gồm bình luận bằng giọng của GV.
Lớp học đảo ngược có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn,
23
Lê Thị Minh Thanh
năng lực sư phạm và kĩ năng sử dụng ICT trong giảng dạy của GV. Tất cả năng lực của GV được
thể hiện qua việc xây dựng video bài giảng một cách khoa học, phù hợp với đối tượng người học.
Kịch bản sư phạm cũng như giáo án của cách dạy đảo ngược sẽ khác về bản chất với dạy học truyền
thống. Kịch bản và giáo án của GV gồm 2 phần chính: Video bài giảng truyền thống và các tình
huống GV tương tác với SV ở lớp.
Giữa nội dung video bài giảng cho SV xem trước ở nhà với nội dung thảo luận trên lớp phải
đảm bảo kết cấu hài hòa và hợp lí. Không ngừng cập nhật những nội dung mới, những tình huống
mới trong thực tế để đưa vào bài giảng video các năm sau để bài giảng luôn được tươi mới.
SV: tự học, tự nghiên cứu video bài giảng của GV và chuẩn bị phần thực hành trên lớp. Việc
học tập bị đảo ngược là nhằm hướng vào người học, thay vì GV điều khiển SV, giờ đây SV chủ
động nghiên cứu các đoạn video bài giảng để hình thành những ý kiến riêng, các câu hỏi xung
quanh nội dung, và trước khi đến lớp đã có những hiểu biết xung quanh khái niệm liên quan.
Kĩ năng cần có của SV: kĩ năng sử dụng ICT, kĩ năng tìm kiếm kiến thức trên mạng, kĩ năng
tự học và cá nhân hóa việc học tập của bản thân.
Bước 2: Trong giờ học trên lớp.
GV trao đổi, thảo luận, kiểm tra đánh giá SV tại lớp. GV chủ yếu hướng dẫn các SV làm
bài tập, tìm hiểu các kiến thức SV chưa hiểu, tìm ra những cách thức làm bài hay nhất, tối ưu nhất
cho SV. Do cá nhân hóa người học nên việc dạy của GV ở các lớp khác nhau thì tình huống cũng
như cách xử lí sư phạm sẽ khác nhau.
SV thực hành ứng dụng các khái niệm chính cùng với phản hồi từ GV và các SV khác. Bằng
cách làm này, SV được phát triển các kĩ năng cần thiết, đó là: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng làm việc
nhóm, kĩ năng ứng dụng công nghệ.
Công việc trên lớp của GV và SV: GV hướng dẫn SV đào sâu kiến thức, SV thực hiện các
hoạt động nhóm phù hợp cũng như dành nhiều thời gian hơn trong việc luyện tập và tư duy,...
Bước 3: Sau giờ học trên lớp.
Kết thúc giờ học trên lớp, nếu những nội dung trao đổi trên lớp chưa hoàn thiện, GV sẽ
hướng dẫn và giải đáp các thắc mắc của SV qua mạng.
SV: kiểm tra lại kiến thức đã học trong giờ học và tự tìm hiểu mở rộng thêm.
SV có thể viết nhật kí hoặc blog, cập nhật những gì họ đã học được hoặc cần phải tập trung
tiếp theo. Sinh viên cũng có thể sử dụng blog hoặc nhật kí của mình để làm một lưu ý bất kì.
Sau bước 3, GV chuyển sang bước 1 để tạo video bài giảng mới hoặc bổ sung video bài
giảng cũ sao cho phù hợp với trình độ tiếp thu bài giảng của SV hiện tại. SV cũng chuyển về bước
1 để nghiên cứu video bài giảng mới của GV.
2.4. Thử nghiệm mô hình “dạy học đảo ngược” môn Vật lí
Vật lí là môn học được dạy ở nhiều trường Đại học, vì vậy đã có nhiều video bài giảng của
các GV có kinh nghiệm. Đề cương và nội dung môn Vật lí ở các trường Đại học khá đồng nhất, vì
vậy có thể sử dụng các videoclip này làm tài liệu tham khảo khi SV nghiên cứu bài giảng ở nhà.
Dựa vào tài liệu có sẵn, GV và SV có điều kiện chọn lọc nội dung phù hợp, sẽ rút ngắn được thời
gian dạy lí thuyết trên lớp của GV, thay vào đó GV có thể hướng SV đi sâu hơn vào việc làm bài
tập nhóm hoặc thảo luận, làm thành thạo các bài tập liên quan đến môn Vật lí.
SV xem, nghiên cứu các video bài giảng này ở nhà, có thể tua đi tua lại những nội dung khó
hiểu,. . . Nếu không hiểu nội dung nào thì đặt ra câu hỏi để đến lớp thảo luận cùng các SV khác
trong lớp dưới sự hướng dẫn của GV.
Trong giờ học
24
Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường Đại học
Dựa trên bộ câu hỏi đã soạn sẵn, vào giờ học trên lớp, tác giả sẽ cho SV làm kiểm tra nhanh,
chọn 10 câu hỏi trắc nghiệm. Sinh viên làm trong 5 phút 10 câu hỏi, nội dung các câu hỏi này nhằm
kiểm tra đánh giá quá trình tự học của SV ở nhà, cũng là nội dung có chủ đề liên quan đến nội
dung sắp thảo luận. Nếu trong lớp số SV làm đúng 7- 10 câu đạt tỉ lệ 70% - 100% và không có SV
làm dưới trung bình thì đảm bảo cho người GV chuyển sang hướng dẫn SV thảo luận chuyên sâu.
Nếu trong lớp số sinh viên làm đúng 5 – 7 câu đạt tỉ lệ 50% - 70% thì GV sẽ tiến hành chữa
nhanh 10 bài trắc nghiệm đó trước khi hướng dẫn SV thảo luận chuyên sâu.
Nếu tỉ lệ sinh viên làm bài dưới 5 câu tỉ lệ dưới 50%, thì chứng tỏ SV chuẩn bị ở nhà chưa
đạt yêu cầu, GV phải chữa 10 câu trắc nghiệm đó đồng thời ôn lại kiến thức liên quan đến những
câu trắc nghiệm đó.
Khi kết thúc phần kiểm tra đầu giờ, GV bước vào phần thảo luận chuyên sâu và đánh giá
trình độ SV sau thảo luận. Khi chưa có máy tính và máy chiếu, rất khó áp dụng tích hợp dạy lí
thuyết và kiểm tra ngay trong lớp học, nhưng với phương tiện dạy học mới, hoàn toàn có thể áp
dụng tích hợp lí thuyết và bài kiểm tra trong cùng một không gian lớp học và thời gian diễn ra
trong lớp. Tương tự như kiểm tra đầu giờ, nếu kết quả sau thảo luận, kiểm tra đạt tỉ lệ khoảng 70%
- 100% thì GV tiếp tục thảo luận nội dung mới.
Sau giờ học
Sau khi kết thúc bài học cũ, qua kiểm tra trắc nghiệm, GV sơ bộ đánh giá trình độ của SV,
trên cơ sở đó GV đưa ra bài kiểm tra mức độ phù hợp với khả năng của SV. Bài kiểm tra sẽ gồm 5
câu, 2 câu tự luận và 3 câu trắc nghiệm. Các câu hỏi được phân loại từ dễ đến khó phù hợp với các
mức trình độ của SV, nhằm đánh giá khách quan về kết quả học tập của SV.
Đề bài kiểm tra sẽ được gửi qua mạng đến từng địa chỉ của SV, SV giải quyết bài kiểm tra
ở nhà, trình bày tự luận và trắc nghiệm trên máy tính và gửi bài làm cho GV qua mạng. GV và SV
có thể trao đổi bài làm qua mạng. Các câu hỏi và bài tập trong đề kiểm tra có nội dung như câu
hỏi trắc nghiệm khi sử dụng đầu giờ, nhưng có độ khó ở mức cao hơn nhiều nhằm đánh giá toàn
bộ quá trình từ tự học đến thảo luận.
Đánh giá kết quả triển khai lớp học đảo ngược
Do khuôn khổ của bài báo, chúng tôi không trình bày các đánh giá định lượng qua kết quả
học tập cuối khóa và so sánh đối chứng so với các lớp khác mà chỉ đánh giá định tính.
Đối với SV: Với các SV có động cơ học tập tốt, họ tỏ ra thích thú với mô hình học tập
này. Do phần lớn thời gian trên lớp là thảo luận, sẽ giúp các SV có điều kiện hiểu sâu bài học,
biết liên hệ kiến thức bài học với thực tế nên tạo hứng thú học tập. Với các SV có động cơ học
tập chỉ vì điểm số hay các bạn SV có năng lực tự học chưa tốt, thì tỏ ra lo lắng. Đối với cách
dạy học truyền thống, tất cả SV phải trật tự chăm chú nghe giảng, ít có điều kiện thể hiện, GV
khó biết SV nào đã chuẩn bị bài ở nhà, SV nào không hiểu bài,. . . Đối với lớp học đảo ngược,
GV dễ dàng phát hiện các SV không chuẩn bị bài ngay từ đầu giờ học trên lớp qua đánh giá câu
hỏi trắc nghiệm bằng phần mềm Moodle, LMS miễn phí, sử dụng để thiết kế quản lí học tập cho
site: Đối với các SV này, mô hình đảo ngược buộc họ phải làm
việc nhiều, vất vả hơn mới có thể “đồng hành” với các SV khác.
Đối với GV: Trong mô hình dạy học đảo ngược, những videoclip bài giảng có chất lượng tốt
sẽ được tiếp tục sử dụng cho năm sau, cho các lớp học tương tự. Đây là một ưu điểm của sử dụng
videoclip trong lớp học đảo ngược, GV không phải nói đi nói lại năm này qua năm khác cùng một
nội dung lí thuyết như trong giờ học truyền thống. GV có thể sẽ bỏ qua nhiều phần lí thuyết mà họ
cho là dễ đối với SV. Thời gian chính của GV trong lớp học đảo ngược dành cho nghiên cứu sáng
tạo ra các bài tập, các câu hỏi hay để đánh giá được năng lực của SV.
25
Lê Thị Minh Thanh
3. Kết luận
Mô hình “Lớp học đảo ngược” là quá trình hội tụ mọi kết quả nghiên cứu của các phương
pháp dạy học truyền thống cũng như dạy học dựa trên máy tính. Học đảo ngược, SV chủ động
kiểm soát việc tự học của mình, có thể tạm dừng, tua lại, và xem video, thảo luận với bạn bè. Thay
vì ngồi lắng nghe các GV giảng bài, SV được dành nhiều thời gian hoạt động hợp tác trao đổi và
được sự hỗ trợ từ GV trong giờ học. Do tăng số giờ thực hành thảo luận tại lớp, SV được phát triển
kĩ năng trao đổi, kĩ năng diễn đạt suy nghĩ của mình. SV thường xuyên được GV kiểm tra đánh
giá, nên biết kiến thức mình để bổ sung trong quá trình tự học.
Bằng việc cá nhân hóa, học tập đảo ngược đã mở ra cơ hội thật sự cho việc học của mọi đối
tượng. Việc SV tự học sẽ giúp tăng tính tự chủ và kĩ năng học tập tốt hơn, đó là những kĩ năng tối
quan trọng trong thế kỉ 21.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phạm Anh Đới, 2014. Cơ hội với Học tập đảo ngược. Tạp chí Công nghệ giáo dục, chuyên
đề Học tập thời đại số của Trường Đại học FPT, trang 12-18, tháng 9.
[2] Phạm Xuân Hậu, 2010. Ứng dụng CNTT để nâng cao hiệu quả dạy-học và nghiên cứu khoa
học trong các trường Đại học Sư phạm. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tăng cường năng lực ứng
dụng CNTT trong đào tạo và nghiên cứu khoa học” (do Công đoàn Giáo dục Việt Nam phối
hợp với ĐHQG Tp.HCM tổ chức), trang 1-5.
[3] Ngô Tứ Thành, 2014. Áp dụng Mooc nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống. Tạp chí
thiết bị giáo dục, số 103 (tháng 3), tr. 1-4.
[4] Anderson, L. W., Krathwohl, D. R., 2001. Phân loại tư duy cho việc dạy, học và đánh giá.
New York: Longman.
[5] Gannod, G., J. Burge, and M. Helmick, 2008. Using the inverted classroom to teach software
engineering. Proceedings of the 30th international conference on Software engineering,
Leipzig, Germany, Association for Computing Machinery, pp. 777-786.
[6] G.C. Gannod, J.E. Burge, and M.T. Helmick, 2008. Using the inverted classroom to teach
software engineering. In Proceedings of the 30th international conference on Software
engineering, pp. 777–786. ACM.
[7] Sarah Zappe, Robert Lieicht, John Messner, Thomas Litzinger, and Hyeon Woo Lee, 2009.
"Flipping" the classroom to explore active learning in a large undergraduate course. In
Proceedings, American Society for Engineering Education Annual Conference & Exposition,
pp. 223-227.
[8] C. Demetry, 2010. Work in progress: An innovation merging "classroom flip" and
team-based learning. In Proceedings, 40th ASEE/IEEE Frontiers in Education Conference.
[9] C. Papadopoulos, A. Santiago-Román, and G. Portela, 2010. Work in progress: Developing
and implementing an inverted classroom for engineering statics. In Frontiers in Education
Conference (FIE), 2010 IEEE, pages F3–F1, IEEE.
[10] C. Papdopoulos and A. Santiago-Román, 2010. Implementing an inverted classroom model
in engineering statics: Initial results. In Proceedings of the ASEE Annual Conference &
Exposition, Louisville, Kentucky, pp. 115-119.
[11] Lage, Maureen J, Glenn J Platt, Michael Treglia, J Lage, and Glenn J Platt, 2011. Inverting the
Classroom: A Gateway to Creating an Inclusive Learning Environment. Journal of Economic
Education, 31 (1), pp. 30-43.
[12] Dr. Robert Talbert, Grand Valley State University, 2012. Learning MATLAB in the Inverted
Classroom. American Society for Engineering Education.
26
Xây dựng mô hình “lớp học đảo ngược” ở trường Đại học
[13] Bergmann J., Sams. A., 2012. Flip your classroom: Reach every student in every class every
day. Eugene, OR: International Society for Technology in Education.
[14] Jeffery S Thomas and Timothy A. Philpot, 2012. An inverted teaching model for a mechanics
of materials course. In Proceedings of the ASEE Annual Conference & Exposition.
[15] N. Warter-Perez and J. Dong, 2012. Flipping the classroom: How to embed inquiry and
design projects into a digital engineering lecture. In Proceedings of the 2012 ASEE PSW
Section Conference, pp. 93-97.
[16] Clyde Freeman Herreid, Nancy A. Schiller, 2013. Case Studies and the Flipped Classroom.
Journal of College Science Teaching, Vol. 42, No. 5, pp. 64-70.
[17] Mahmoud Ibrahim Syam, 2014. Possibility of applying flipping classroom method in
mathematics classes in foundation program at Qatar. Proceedings of SOCIOINT14-
International Conference on Social Sciences and Humanities, 8-10 September, Istanbul,
Turkey.
[18] Oyeleke Oluniyi, Olagunju Oluwayemisi Elizabeth, Ayamolowo Sunday Joseph, Aribaba
Foluso Oluwagbemiga, 2014. Pedagogical and Technical Implication of Conversion from
Face- to-Face to Blended Learning. Journal of Education and Practice, Vol.5, No.30,
pp. 195-199.
[19] Tuncay Yigit, Arif Koyun, Asim Sinan Yuksel, Ibrahim Arda Cankaya, 2014. Evaluation
of Blended Learning Approach in Computer Engineering Education. Procedia - Social and
Behavioral Sciences 141, pp. 807 – 812.
ABSTRACT
Building the model "flipped classroom" at the University
This paper analyzes the current situation of using Information Technology (ICT) in teaching
at the university, then introduces the flipped classroom model as well as ways to implement flipped
learning. The paper f explains the benefits of this approach and how it redefines the role of teachers
and students in the flipped classroom model.
Keywords: Media, flipped classroom, Information Technology, lecturer, skill.
27

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_mo_hinh_lop_hoc_dao_nguoc_o_truong_dai_hoc.pdf