Về tam đoạn luận biện chứng trong logic học Aristotle
Trong học thuyết logic học của mình,
Aristotle phân biệt các loại suy luận
cơ bản sau: suy luận theo tam đoạn luận
nhất quyết (hay còn gọi là tam đoạn
luận phân tích), suy luận theo tam đoạn
luận tình thái và suy luận theo tam
đoạn luận biện chứng(∗). Tam đoạn luận
nhất quyết và tình thái được Aristotle
trình bày chủ yếu trong “Phân tích học
thứ nhất” và “Phân tích học thứ hai”
(Prior Analytics, Posterior Analytics),
còn “tam đoạn luận biện chứng” được
ông trình bày trong các tác phẩm “Nghệ
thuật tranh luận” (Topics) và “Tu từ
học” (Rhetorike) và một phần trong
“Phân tích học thứ nhất”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Về tam đoạn luận biện chứng trong logic học Aristotle", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về tam đoạn luận biện chứng trong logic học Aristotle
g bác bỏ đ−ợc, nếu nó chân thực, vì kết luận của nó là phán đoán chung. Còn tam đoạn luận dựa trên kí hiệu nhận đ−ợc thông qua dạng hình cuối bị bác bỏ, thậm chí nếu kết luận của nó chân thực, bởi vì kết luận của nó không phải là phán đoán chung” (2, 70a25-32). Từ các trích đoạn trên, ta rút ra các dạng hình entimema khi đã đ−ợc khôi phục nh− sau. Entimema đầy đủ dạng hình đầu: Ng−ời đàn bà có sữa (B) thì có mang (A) Ng−ời đàn bà này (C) có sữa (B) ⇒ Ng−ời đàn bà này (C ) có mang (A) Entimema dựa trên kí hiệu đ−ợc khôi phục đầy đủ theo dạng hình ba: Pittak (C) là ng−ời trung thực (A) Pittak (C) là nhà thông thái (B) ⇒ Các nhà thông thái (B) trung thực (A) Và, cuối cùng, entimema đ−ợc khôi phục theo dạng hình giữa: Ng−ời đàn bà có mang (B) thì xanh xao (A) Ng−ời đàn bà này (C ) xanh xao (A) ⇒ Ng−ời đàn bà này (C ) có mang (B) Theo Aristotle thì chỉ có tam đoạn luận dạng hình đầu đ−ợc khôi phục đúng (không bác bỏ đ−ợc), vì kết luận của nó là phán đoán chung. Còn tam đoạn luận dựa trên kí hiệu đ−ợc khôi phục theo dạng hình cuối bị bác bỏ, thậm chí khi kết luận của nó chân thực, bởi vì ông có ý nói theo qui tắc theo đó thì các kết luận của các công thức thuộc dạng hình ba chỉ là các phán đoán riêng; điều này ông đã nói ở “Phân tích học thứ hai”, quyển I, ch−ơng 14: “Trong tất cả các dạng hình của tam đoạn luận, thì dạng hình thứ nhất là thích dụng nhất đối với khoa học bởi vì phép chứng minh có thể dùng nó vào các khoa học toán học nh− số học và hình học, quang học, và có thể nói, tất cả các khoa học nghiên cứu nguyên nhân, tại sao có, bởi vì tam đoạn luận về vấn đề: tại sao có, nhận đ−ợc hoặc là trong tất cả, hoặc là trong nhiều tr−ờng hợp, hoặc là nhiều hơn cả chính là thông qua dạng hình này. Vì thế dạng hình đầu là thích dụng nhất đối với khoa học, bởi vì đối với tri thức thì quan trọng nhất là nghiên cứu nguyên nhân tại sao có. Hơn nữa, chỉ có thông qua dạng hình này mới có thể đạt đ−ợc tri thức về thực chất sự vật, bởi vì ở dạng hình giữa không có tam đoạn luận khẳng định, hơn nữa tri thức về thực chất là tri thức khẳng định. Trong dạng hình cuối dù có [kết luận khẳng định] nh−ng không chung, hơn nữa thực chất sự vật là một cái gì đó chung: vì (ví dụ) con ng−ời trong một mối quan hệ nào đó chỉ là thực thể hai chân. Ngoài ra, dạng hình thứ nhất không cần đến các dạng hình khác. Nh− vậy, hiển nhiên là dạng hình đầu có ý nghĩa lớn nhất đối với tri thức” (3, 79a20-30). Ngoài cách lý giải “hình thức” nh− trên, Aristotle còn lý giải dựa theo nội dung thực tế đối với dạng hình ba: “Thực vậy, nếu Pittak trung thực, thì từ đó còn ch−a rút ra một cách tất yếu rằng cả những nhà thông thái khác cũng trung thực” (2, 70a32-33). Đối với entimema dạng hình giữa thì theo Aristotle: “tam đoạn luận (dựa 40 Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2010 trên kí hiệu) có đ−ợc thông qua dạng hình giữa, luôn luôn và trong tất cả các tr−ờng hợp có thể bị bác bỏ, bởi vì trong mối quan hệ nh− vậy của các thuật ngữ tam đoạn luận không bao giờ có đ−ợc” (2, 70a34-35). ở đoạn vừa rồi Aristotle không nói rõ cụ thể, nh−ng ở trích đoạn trên nh− ta thấy, ông đã nói một cách cụ thể rằng ở dạng hình giữa không có tam đoạn luận khẳng định (trích đoạn 8). Đồng thời ông cũng lý giải về mặt nội dung cụ thể tại sao entimema đ−ợc khôi phục nh− ở dạng hình giữa không đúng: “Trên thực tế, nếu ng−ời đàn bà có mang luôn xanh xao và nếu ng−ời đàn bà này xanh xao, thì từ đây không thể tất yếu kết luận rằng ng−ời đàn bà này có mang” (2, 70a36-38). Xét về mặt kí hiệu, trong tất cả các dạng tam đoạn luận trên, Aristotle gọi kí hiệu đ−ợc sử dụng ở dạng hình thứ nhất là kí hiệu chứng minh, vì theo ông, kí hiệu đ−ợc sử dụng ở dạng hình đầu xác suất và chân thực nhất, còn các kí hiệu đ−ợc sử dụng ở những dạng hình khác của tam đoạn luận, chỉ đơn giản là các kí hiệu, không có tính chứng minh. Nếu chú ý kỹ hơn đến các ví dụ trên về entimema đ−ợc khôi phục và coi kí hiệu là thuật ngữ đ−ợc dẫn ra trong tiền đề để chứng minh, thì nó sẽ chiếm vị trí thuật ngữ giữa ở mỗi dạng hình khi đ−a entimema về tam đoạn luận: “có sữa”- là kí hiệu ở dạng hình đầu, “xanh xao”- ở dạng hình giữa, "Pittak" - ở dạng hình cuối. ở đây ta thấy, cũng nh− trong “tam đoạn luận dựa trên qui nạp”, các thuật ngữ trong mỗi dạng hình có tên gọi thuật ngữ giữa và thuật ngữ biên không phải theo chức năng logic của chúng là gắn kết, mà theo bản chất của chúng- bản chất ấy t−ơng ứng với trật tự các thuật ngữ ở dạng hình thứ nhất của tam đoạn luận. Đó là, ở dạng hình thứ nhất của tam đoạn luận, thuật ngữ giữa xét theo chức năng logic (liên kết) của nó cũng đồng thời là “giữa” cả theo bản chất nh− là cơ sở khách quan hay là nguyên nhân của tính vốn có hay không vốn có một cái gì đó (hay đặc tính nào đó) của chủ từ kết luận. Thuật ngữ lớn ở dạng hình đầu là thuộc tính đ−ợc gán cho hay không gán cho chủ từ (của kết luận) - có nghĩa là hệ quả. Thuật ngữ nhỏ ở dạng hình thứ nhất là đại biểu (hay vật mang) của cơ sở khách quan hay nguyên nhân. Trong cả ba ví dụ dẫn ra ở trên kí hiệu A ở cả ba dạng hình đều là thuật ngữ lớn xét về bản chất - có nghĩa là hệ quả, B là thuật ngữ giữa xét về thực chất, có nghĩa là cơ sở khách quan (hay nguyên nhân), và C là thuật ngữ nhỏ xét về thực chất, có nghĩa là đại biểu của cơ sở hay hệ quả. Khi đó, trong entimema đ−ợc qui về dạng hình hai, kí hiệu “xanh xao” - dù xét về chức năng logic của mình là gắn kết các thuật ngữ biên, kí hiệu đó xét về bản chất- là thuật ngữ giữa, thế nh−ng, khi là hệ quả, nó cần phải đ−ợc coi là thuật ngữ lớn và kí hiệu là A. Trong entimema đ−ợc qui về dạng hình ba, kí hiệu Pittak theo chức năng logic gắn kết là thuật ngữ giữa, nh−ng xét về bản chất thì đóng vai trò là đại biểu (vật mang) của cả hai thuộc tính (trung thực và thông thái) thì lại cần đ−ợc coi là thuật ngữ nhỏ và đ−ợc kí hiệu là C. Và chỉ có ở dạng hình thứ nhất kí hiệu theo chức năng logic-gắn kết và theo bản chất nó đều là thuật ngữ giữa và kí hiệu là B. Nói cách khác trong các entimema thuộc dạng hình hai và ba, kí hiệu không phải là cơ sở khách quan của các thuộc tính, tính chất nh− ở dạng hình đầu, mà chỉ là hệ quả hay vật mang tính chất, có nghĩa là cái mà nó hoặc là không chứng minh Về tam đoạn luận biện chứng... 41 gì, hoặc chỉ là sự trùng hợp của các thuộc tính ở những tr−ờng hợp cụ thể đã biết. Điều đó giải thích tại sao thuật ngữ giữa mà xét về bản chất cần phải là cơ sở và kí hiệu chứng minh và đ−ợc kí hiệu là B, ở dạng hình hai là thuật ngữ lớn xét theo chức năng logic, còn ở dạng hình ba là thuật ngữ nhỏ, có nghĩa là ở cả hai dạng hình đó không đ−ợc coi nh− kí hiệu chứng minh. ở cuối ch−ơng 27, quyển II của “Phân tích học thứ nhất” Aristotle thể hiện một số t− t−ởng t−ơng ứng với việc sử dụng entimema dựa trên kí hiệu trong một khoa học (thời Hy Lạp cổ) có tên gọi phiên âm theo tiếng Hy Lạp là Phisiognomikos (khoa học nghiên cứu mối liên hệ giữa đặc điểm thể xác với đặc tính tinh thần của động vật). Khoa học này đ−ợc xây dựng dựa trên hai giả định: 1) thể xác và tinh thần thay đổi đồng thời; và 2) đối với mỗi một tình trạng tinh thần, chỉ có một dấu hiệu thể xác t−ơng ứng. Để tìm ra các dấu hiệu thể xác của các tình trạng tinh thần nhất định thì theo Aristotle cần phải làm sao để cho kết luận đ−ợc rút ra theo dạng hình thứ nhất của tam đoạn luận. ở đây tình trạng hay là tính chất tinh thần cần nghiên cứu cần phải vốn có không chỉ của một giống thực thể nhất định, mà cả những giống khác, và dấu hiệu thân thể cần phải đ−ợc quan sát thấy ở mọi nơi quan sát thấy tình trạng tinh thần. Nếu dấu hiệu thể xác lập tức đi kèm theo hai tình trạng tinh thần, thì cần tìm kiếm tr−ờng hợp khi mà một trong các tình trạng tinh thần vắng mặt, còn tình trạng kia thì có mặt; và nếu dấu hiệu thể xác trong tr−ờng hợp này không xuất hiện, thì nó là dấu hiệu của tình trạng vắng mặt. Trên thực tế, một dấu hiệu không chỉ là hệ quả, mà còn là dấu hiệu chứng minh, thì ở những nơi mà nó có, cần phải có cả tính chất hay tình trạng mà nó là dấu hiệu của chúng. Ví dụ, tất cả s− tử đều có tinh thần can đảm. Ta cần tìm dấu hiệu thể xác của can đảm. Dấu hiệu đó có thể là móng vuốt lớn. Nh−ng móng vuốt lớn, cũng nh− tinh thần can đảm vốn có không chỉ ở s− tử, mà còn có cả ở các động vật khác. Theo Aristotle, nếu móng vuốt lớn thực chất là dấu hiệu của tinh thần can đảm, thì nó cần đ−ợc thấy ở tất cả các động vật có tinh thần can đảm. Nh−ng s− tử có hai thuộc tính tinh thần nổi bật: can đảm và khẳng khái. Để xác định xem móng vuốt lớn là dấu hiệu của thuộc tính tinh thần nào trong hai thuộc tính trên, cần kiểm tra mối liên hệ của các dấu hiệu và các thuộc tính nói trên ở những động vật khác. Nếu quan sát thấy một số động vật khác có móng vuốt lớn, và nếu thấy có tinh thần can đảm nh−ng không có khẳng khái, thì có thể kết luận rằng móng vuốt lớn ở s− tử thực chất là dấu hiệu của tinh thần can đảm. Theo Aristotle, lập luận đó đ−ợc xác định dựa trên sự tiếp nhận tiền đề là: mối liên hệ giữa thuộc tính tinh thần với dấu hiệu thể xác là mối liên hệ giữa điều kiện cần và điều kiện đủ. Trên thực tế, móng vuốt lớn không đ−ợc thừa nhận là dấu hiệu của sự khẳng khái chỉ bởi vì rằng nó đ−ợc thấy trong những tr−ờng hợp không xuất hiện tính khẳng khái; và móng vuốt lớn đ−ợc thừa nhận là dấu hiệu của tinh thần can đảm bởi vì rằng ở những động vật có tinh thần can đảm thì đều có móng vuốt lớn. Khái quát những lập luận đó, Aristotle chỉ ra qui tắc sau đây của entimema dựa trên kí hiệu (dấu hiệu) đối với Phisiognomikos: suy luận cần đ−ợc xây dựng theo dạng hình thứ nhất của tam đoạn luận, trong đó thuật ngữ 42 Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2010 giữa cần phải đảo ng−ợc đ−ợc lẫn nhau với thuật ngữ lớn, nh−ng phải v−ợt qua giới hạn của thuật ngữ nhỏ và do đó, không cần phải đảo ng−ợc lẫn nhau với thuật ngữ nhỏ. Trong ví dụ dẫn ra ở trên thuật ngữ lớn (A) là tinh thần can đảm, thuật ngữ giữa (B) - có móng vuốt lớn, và thuật ngữ nhỏ (C) là s− tử. B (móng vuốt lớn) vốn có không chỉ của bất kì C nào (s− tử), mà đồng thời cả một số động vật khác. A (tinh thần can đảm) và B (móng vuốt lớn) cần phải là các thuật ngữ đảo ng−ợc đ−ợc lẫn nhau; có nghĩa là bất kì động vật can đảm nào (A) cũng có móng vuốt lớn (B), và ng−ợc lại, bất kỳ động vật có móng vuốt lớn nào (B) cũng là động vật can đảm (A); nếu khác đi thì B không đ−ợc coi là dấu hiệu chứng minh (xem: 2). Trong logic học Aristotle, các suy luận đ−ợc xây dựng dựa trên các thuộc tính, tính chất mang tính ngẫu nhiên còn thuộc về các entimema dựa trên xác suất. Xác suất, theo Aristotle, là các ý kiến gần chân lý, có nghĩa là các ý kiến về các sự kiện diễn ra không phải luôn luôn, mà trong đa số các tr−ờng hợp. Những ý kiến đó đôi khi có tính thuyết phục lớn hơn so với các chứng minh mang tính phân tích. Thuộc tính này của xác suất th−ờng đ−ợc các nhà triết học cổ đại sử dụng trong các diễn văn. Nhà hùng biện có thể tính đến thành công nếu có “các ph−ơng pháp đ−ợc thiết lập từ tr−ớc mà dựa trên cơ sở của chúng có thể xây dựng các entimema về cái tốt và cái xấu, về cái tuyệt vời và cái đáng xấu hổ, về cái công bằng và cái bất công, và cũng nh− vậy về cả các tính cách, những tham vọng và phẩm chất đạo đức” (5, 1396b31-43). Dựa trên t− t−ởng đó, Aristotle đã xây dựng các entimema liên quan đến nhiều vấn đề cụ thể. Ví dụ về entimema sau đây “Nếu thậm chí các thần cũng không biết tất cả, thì liệu chăng ng−ời ta biết tất cả”. Trong đó bỏ qua tiền đề lớn, mà tiền đề đó, một mặt thể hiện là một cái hiển nhiên, mặt khác không nói gì về bản chất cụ thể các thần và ng−ời. ở đây phán đoán đ−ợc xây dựng dựa trên một nguyên tắc chung theo mối quan hệ “lớn hơn-nhỏ hơn”- hình thành nên tiền đề lớn của suy luận mà chúng ta xem xét: “Nếu một cái gì đó không có [ở thực thể] mà ở đó nó cần phải có ở mức độ lớn, thì rõ ràng là [cái này] không có cả ở [thực thể] có cái này ở mức độ ít” (5, 1397b12-15). Trong “Nghệ thuật tranh luận” Aristotle chỉ ra cả các nguyên tắc chung khác đ−ợc xây dựng trên mối quan hệ “lớn hơn-nhỏ hơn”. Chúng tôi sẽ dẫn ra một số entimema tiêu biểu mà Aristotle đã xây dựng đ−ợc và trình bày trong ch−ơng 10, quyển II của “Nghệ thuật tranh luận”. Đó là: “Qui tắc chung đầu tiên đ−ợc xây dựng dựa trên cơ sở là cái lớn kéo theo cái lớn”. “Vì nếu sự gia tăng đối t−ợng t−ơng ứng với sự gia tăng các thuộc tính của nó, thì rõ ràng là các thuộc tính này nói về nó, nếu không t−ơng ứng, thì không nói về nó”. “Nguyên tắc chung khác đ−ợc sử dụng, khi một cái nói về hai cái”. Modus này của các entimema có cả công thức phủ định (theo nó, kết luận của suy luận vừa đ−ợc xem xét về thần và ng−ời liên quan đến nhận thức đ−ợc thực hiện), cũng nh− cả công thức khẳng định: “Nếu một cái vốn có của cái mà nó hình nh− vốn có ở mức độ nhỏ hơn, thì nó vốn có cả của cái mà nó hình nh− vốn có ở mức độ lớn hơn”. “Mặt khác, có nguyên tắc chung đ−ợc sử dụng trong tr−ờng hợp hai cái gán cho một cái: nếu không vốn có cái mà ở mức độ lớn hơn hình nh− vốn có, thì cũng không vốn có của cái Về tam đoạn luận biện chứng... 43 khác mà nó ở mức độ nhỏ hơn hình nh− vốn có; nếu vốn có cái mà ở mức độ nhỏ hơn hình nh− vốn có, thì cũng vốn có đồng thời cả cái khác mà nó hình nh− vốn có ở mức độ lớn hơn”. “Tiếp theo, khi hai cái gán cho hai cái [nguyên tắc chung sau đ−ợc sử dụng]: nếu một cái không vốn có cái mà nó ở mức độ lớn hơn hình nh− vốn có của nó, thì cái khác cũng đồng thời không vốn có của cái khác; nếu một cái vốn có của một cái mà nó ở mức độ nhỏ hơn hình nh− vốn có của cái đó, thì cả cái khác cũng vốn có của cái khác” (6, 115a3-15). Mục đích của việc xây dựng các entimema dựa trên xác suất là Aristotle muốn đề xuất một số nguyên tắc, ph−ơng pháp chung cho nhận thức bản chất sự vật dựa trên các thuộc tính ngẫu nhiên của nó. Trong quyển ba của “Nghệ thuật tranh luận” Aristotle thể hiện b−ớc chuyển từ việc xây dựng các nguyên tắc, ph−ơng pháp chung dựa trên các thuộc tính ngẫu nhiên đến các nguyên tắc, ph−ơng pháp chung dựa trên các thuộc tính giống, và ông chỉ ra rằng trong đời sống thực tiễn chúng ta quan tâm nhiều hơn đến các đặc điểm của những thuộc tính ngẫu nhiên nằm gần bản chất. Tài liệu tham khảo và trích dẫn 1. Tu từ học, quyển I, ch−ơng 2. 2. Phân tích học thứ nhất, quyển II, ch−ơng 27. 3. Phân tích học thứ hai, quyển I, ch−ơng 19. 4. Tu từ học dành cho Aleksandre, ch−ơng 13. 5. Tu từ học, quyển II, ch−ơng 22. 6. Nghệ thuật tranh luận, quyển II, ch−ơng 10.
File đính kèm:
- ve_tam_doan_luan_bien_chung_trong_logic_hoc_aristotle.pdf