Về một số thách thức trong nghiên cứu Triết học hiện nay
Thách thức thứ nhất là, với tiến bộ
của khoa học công nghệ, nhất là lĩnh
vực vật lý hạ nguyên tử (vật lý lượng tử)
làm rõ bản chất sóng - hạt, lĩnh vực
khoa học tin học và thông tin, khoa học
gen, cũng như nghiên cứu về lĩnh vực
năng lượng - trường sinh học, trường
sống, tâm linh,. đang cần làm rõ hơn
những lý giải về nguyên lý phản ánh,
sáng tạo và bản chất ý thức của con
người và ý thức hay tiền ý thức, gần
như ý thức, tâm thức của vũ trụ.
Đó cũng là vấn đề ý thức với linh
hồn, luân hồi, hồn vong,. Liệu có đảo
lộn nguyên lý về ý thức hay không? ý
thức có tính vật chất hay không?
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Về một số thách thức trong nghiên cứu Triết học hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về một số thách thức trong nghiên cứu Triết học hiện nay
ằng. Minh triết của những ng−ời đã trở thành vị Phật cho biết rằng: thể xác và hệ thống các cơ thể năng l−ợng của một cá nhân có thể bị phá huỷ hoàn toàn, nh−ng phẩm chất nhận biết hoặc tâm thức t−ơng ứng thì vẫn tồn tại. Đó là điều vô cùng khó tin đối với ng−ời th−ờng. Khi cơ thể vật lý của con ng−ời bị phá huỷ hoặc cắt rời khỏi hệ thống các cơ thể năng l−ợng thì cái chết vật lý xảy ra. Nhờ một vài trải nghiệm cần thiết cùng với sự hiểu biết sâu sắc về tâm linh, tâm thức con ng−ời có thể quan sát cái chết tự nhiên của mình một cách bình thản và phúc lạc, vì đó chỉ là quá trình chuyển đổi chiều thực tại từ vũ trụ vật lý ít sáng tỏ qua một chiều phi vật lý linh hoạt hơn. Bởi vậy, thái độ hoảng sợ tr−ớc cái chết vật lý đ−ợc coi là một trong những ảo t−ởng vĩ đại nhất của con ng−ời từ x−a đến nay (xem thêm: 2). Giải thích nh− vậy là phù hợp với thực tiễn khoa học hiện đại về các hiện t−ợng dị th−ờng mà rất duy vật, biện chứng và nhân văn. Phải chăng là nh− vậy. Có cách lý giải nào khác chăng? Nghiên cứu và giảng dạy triết học ngày nay không nên rụt rè, lẩn tránh, kính nhi viễn chi mà cần phải lý giải khi có thể. Muốn vậy, phải cập nhật thông tin mới và có nghiên cứu thật sự mới lý giải thuyết phục (t−ơng đối, mở). Nếu không sẽ là bỏ trận địa trống cho t− t−ởng, tâm lý mang tính duy tâm/và mê tín, bất lực và hoang mang,... Loại vấn đề 2 liên quan tới tính phê phán và tính kế thừa, tính sáng tạo của triết học Marx và tính đối thoại, gợi mở trong giảng dạy/nghiên cứu triết học hiện nay Thách thức thứ ba: thời kỳ thông tin nhiều chiều, mở của mạng xã hội, triết học trong nghiên cứu và nhất là trong giảng dạy, thảo luận cần mang tính đối thoại ở mức tối đa nào, cần gia tăng ra sao, để cho hoạt động này không còn cứng nhắc, áp đặt, một chiều? Bảo vệ cái đúng và phê phán những ng−ời phê phán lại chủ nghĩa Marx - Lenin và triết học Marx một cách vô cớ nh− thế nào? Kế thừa thật sự các thành tựu triết học và văn hóa khác nh− thế nào? Thời đại dân chủ, bao dung thì tự do t− t−ởng/tự do học thuật, cần chấp nhận bất đồng chính kiến hay không? Thảo luận đối thoại ra sao hay chỉ im lặng và chuyên chính t− t−ởng? Phải chăng trong nghiên cứu và giảng dạy triết học cần tăng c−ờng tính phê phán (phản biện khoa học) đối với các triết thuyết khác để thúc đẩy, ủng hộ cái mới, cái sáng tạo, cái nhân văn. Trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy phải thể hiện rõ kế thừa các triết 14 Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2012 học khác, các thành tựu khoa học và triết học hiện đại, thoát ly mặc cảm t− sản (nh− tính hữu dụng của triết học thực dụng, tính ng−ời, tính nhân văn trong triết học nhân bản, hiện sinh, Phật giáo...; hay thành tựu mới về khoa học năng l−ợng - thông tin, nhân diện, sự sống, thuyết tất định, ph−ơng pháp bổ sung/dung thông, ph−ơng pháp hệ thống phức hợp,...). Xa rời, quay l−ng lại với các thành tựu ấy thì triết học Marx có nhiều mặt rất dễ bị lạc hậu, bất lực với cuộc sống. Thách thức thứ t−: sử dụng ph−ơng pháp luận biện chứng có tính phê phán và cách mạng, khoa học và nhân văn nhằm phê bình, phê phán xã hội hiện tồn để tiếp tục cải cách đổi mới ra sao trong t−ơng quan với nói và làm theo Nghị quyết? Có lẽ nào lại tiếp tục biến triết học biện chứng thành thuyết minh chính trị, bỏ mất tinh thần phê phán và cách mạng của nó, khi đất n−ớc đang cần đổi mới lần hai, đổi mới toàn diện và theo chiều sâu? Làm sao để giảng dạy triết học không trở thành giảng dạy chính trị, làm cho cả triết học và chính trị mất tính khoa học, tính phản biện? Chúng tôi nghĩ rằng, nói Nghị quyết ở đây thì nên hiểu là tinh thần Nghị quyết và cần phân biệt chính trị đúng với chính trị sai, không còn hợp lý. Hơn nữa cần tiếp cận ở góc độ ph−ơng pháp luận triết học và thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý, tiêu chuẩn giá trị. Chẳng hạn, lịch sử xã hội là nhân tạo so với thiên tạo. Nh−ng lịch sử tiến lên của xã hội phải mang tính lịch sử - tự nhiên, mà CNXH là sản phẩm của quá trình ấy chứ không phải là sản phẩm nhân tạo (ảo t−ởng, sai lầm, trái quy luật), khuôn theo một lý t−ởng nào đó. Mặc dù K. Marx đã cảnh báo, nh−ng lịch sử phong trào XHCN thế kỷ XX vẫn vấp phải một cách nặng nề. Engels và Lenin cảnh báo nhân loại còn tiến lên thì còn sai lầm, nh−ng phải nhận ra và sửa sai lầm. Mô hình “CNXH” - tập trung bao cấp trong thế kỷ XX đến hơn nửa thế kỷ, đến mức khủng hoảng và sụp đổ mới nhận ra sai lầm nhân tạo. Khi ta lý giải, nhất là lý giải cái sai th−ờng thiên về duy lý, bỏ qua cái ngoài duy lý, nặng về do năng lực hiểu biết, do trình độ tri thức, ph−ơng pháp luận,... mà ít thấy nguồn gốc từ thói quen, kinh nghiệm, từ vô thức, từ tình cảm, từ lợi ích, từ bệnh ích kỷ, tự cao,... của cá nhân, hoặc cộng đồng (tập thể). Rõ ràng phong trào XHCN thế kỷ XX bị ảnh h−ởng khá nặng nề bởi t− t−ởng, nhận thức mang tính tâm lý tiểu t− sản, tiểu nông và phong kiến gia tr−ởng trong các thế hệ cán bộ cộng sản... nh−ng lại chỉ phòng, chống nhằm vào t− t−ởng t− sản, chế độ TBCN, đế quốc một cách cực đoan (nhất là về chế độ t− hữu, kinh tế thị tr−ờng, dân chủ t− sản, tam quyền phân lập...). Dần dần chúng ta mới nhận ra hệ lụy của việc đó là lỡ cơ hội và cái giá rất đắt, phải chăng vì chúng ta ch−a qua CNTB. Điều này đã đ−ợc Lenin cảnh báo. Mới đây, về mặt lý thuyết chúng ta mới chấp nhận kiểm soát quyền lực trong thể chế nhà n−ớc pháp quyền XHCN đang xây dựng ở n−ớc ta (Đại hội XI) cũng là một ví dụ. Lĩnh vực chính trị, nh− đảng phái, nhà n−ớc, xã hội dân sự, chúng ta vẫn cứ bị ám ảnh t− sản, cho nên các công nghệ chính trị t− sản nhiều cái là sản phẩm của nền văn minh, khá tiên tiến, nh−ng không ít cái vẫn còn bị kính nhi Về một số thách thức 15 viễn chi với nhân danh đủ thứ. T− duy hậu Hồ Chí Minh lại khác xa và ng−ợc lại với Hồ Chí Minh trên khá nhiều vấn đề. Phải chăng vì thiếu cả tâm thiếu cả tầm. Tức là không ít khi sai lầm cả về mặt ph−ơng pháp luận và mặt đạo đức. Việc giảng dạy/nghiên cứu triết học phải chỉ ra đ−ợc các loại nguyên nhân ấy của các vấn đề nhận thức và thực tiễn thì công tác này mới trở nên có ý nghĩa. Loại vấn đề 3 liên quan tới thực chất của triết học Marx và sự phát triển của triết học Marx Từ loại vấn đề này ta thấy thách thức thứ năm là cần phát triển đào sâu vào lĩnh vực nào của triết học Marx - Lenin để phù hợp bản chất đặc tr−ng của nó cũng nh− sự phát triển của khoa học và thực tiễn? Phải chăng triết học Marx- Lenin là lỗi thời, nh− có ng−ời quan niệm? Triết học Marx không chỉ duy vật, biện chứng mà cái chính là nội dung và tính thực tiễn, không chỉ có tính khoa học mà còn có tính nhân văn cao. Cho nên, đó là triết học thực tiễn, duy vật thực tiễn. Từ đó nguyên lý thực tiễn không chỉ làm rõ ở phần nhận thức luận mà tr−ớc hết là ở phần bản thể luận, gắn liền và sau phạm trù thế giới vật chất(*). Điều đó còn có nghĩa là lấp một chỗ trống về nguyên lý hoạt động thực tiễn của con ng−ời sao cho có hiệu quả, xét về mặt nguyên lý triết học? Hơn nữa nhận thức hoạt động không chỉ là vấn đề nhận thức chân lý mà còn là vấn đề giá trị. Hay vấn đề con ng−ời, tha hóa nhân cách và phát triển con ng−ời, giải phóng con ng−ời phải đ−ợc nghiên cứu/giảng dạy, lý giải toàn diện, (*) Xem thêm: Giáo trình Những nguyên lý triết học Marx của Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia đã xuất bản ở Việt Nam. nhiều chiều kích và sâu hơn, chứ không đơn điệu nh− hiện nay. Rồi vấn đề nhận thức luận, cũng không nên chỉ dừng lại ở việc trình bày thiên về duy lý mà ít chú ý yếu tố ngoài duy lý (mà nhận thức luận Phật giáo hoặc phân tâm học,... rất chú ý). Bởi vì nh− vậy sẽ khó cắt nghĩa đ−ợc tính phức tạp của nhận thức và hành động, nh− đã nói ở trên. Hoặc về quan niệm và lý giải nguyên lý cũng cần xem xét lại và bổ sung nh− thế nào cho thích hợp. Có ng−ời cho rằng phải từ bỏ triết học nhất nguyên chuyển sang triết học đa nguyên?(*). Đây, tr−ớc hết là cách tiếp cận, cách hiểu, nh−ng có ý nghĩa lý luận triết học. Phải chăng xét tới cùng bản chất, nguồn gốc thì vũ trụ là nhất nguyên (nhất nguyên duy vật là triết lý vạn vật đồng nhất thể), nh−ng xét về mặt/ tầng hai/ ba - ph−ơng thức thể hiện thì nó đa nguyên (sự vật, hiện t−ợng cấu thành từ các mặt thống nhất - đối lập, tính đa dạng của chúng,...). Chúng ta khi nói về nhất nguyên (về bản chất/nguồn gốc) của sự vật thì hình nh− lại phủ nhận đa nguyên về mặt ph−ơng thức tồn tại này của chúng, cộng với “nỗi sợ đa nguyên chính trị”, nên hoặc lẩn tránh hoặc g−ợng ép trong lý giải. Thực tiễn đòi hỏi lý luận, mà lý luận không điều chỉnh, cũng không phát triển, tức bất lực, né tránh hay chậm trễ thì thực tiễn trở nên mù quáng và bất lực, trì trệ hoặc lệch h−ớng. Hoặc khi lý giải về sự sụp đổ mô hình CNXH, chúng ta th−ờng nói, nó (*) Tác giả Nguyễn Huy Canh qua một số bài viết đăng trên mạng xã hội hoặc gửi riêng cho chúng tôi. 16 Thông tin Khoa học xã hội, số 8.2012 không phải là tất yếu. Thì chúng ta lại chạy sang cực ngẫu nhiên luận. Thực ra, mô hình CNXH kiểu cũ bị thay thế là tất yếu. Nh−ng sự sụp đổ chế độ kiểu Liên Xô và Đông Âu cũ, hay cải cách, đổi mới nh− Việt Nam và Trung Quốc, xét trong hoàn cảnh mỗi n−ớc, nh− đã diễn ra là tất nhiên/tất yếu theo các khả năng, điều kiện khách quan/chủ quan có thể. Làm gì có cái tất yếu hay ngẫu nhiên thuần túy. Thế nh−ng hiện nay cũng có chiều h−ớng trong một số nhà khoa học tự nhiên lại phủ nhận cái ngẫu nhiên. Nh− vậy, cả giáo trình triết học cũng phải đổi mới, cải cách, cấu trúc lại cả về mặt nguyên lý và cách lý giải là rất cần thiết. Nh−ng không chỉ thế. Bên cạnh triết học cơ bản đại c−ơng, cần có các triết học cụ thể, chuyên ngành hóa (triết học vật lý, triết học kinh tế, triết học chính trị, triết học giáo dục, triết học nhân văn, triết học phát triển... (xem thêm: 6, 7)) nh− xu thế phân ngành triết của thế giới làm cho triết học trở nên đa dạng, sát thực và hữu ích hơn. Loại vấn đề 4 liên quan tới hiệu quả giảng dạy, nghiên cứu triết học Thách thức thứ sáu là, phải chăng triết học là chung chung không cần thiết. Thách thức này đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu - giảng dạy làm sao để triết học thật sự trở thành ph−ơng pháp suy nghĩ và hành động có hiệu quả? Không chỉ phải đổi mới nội dung và cách lý giải triết học thực tiễn của Marx trên nền t− duy biện chứng thống nhất phê phán - kế thừa - bổ sung - phát triển làm một (chứ không phải phê phán - vứt bỏ). Những nội dung cần bổ sung và cấu trúc lại nh− ví dụ đã nêu trên. Nh−ng cải cách về ph−ơng pháp giảng dạy, tự học, và ph−ơng pháp đánh giá là cực kỳ quan trọng. Tăng yếu tố đối thoại, nêu vấn đề, tự do t− t−ởng, đặt ng−ời học vào vị trí chủ thể, trung tâm cần có cơ chế, quy trình phù hợp. Tăng c−ờng kiểm tra đánh giá bằng vấn đáp, tiểu luận chuyên đề nhằm nâng cao năng lực tự học và rèn luyện ph−ơng pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề (giải quyết bài toán) thì thấm đ−ợc ph−ơng pháp luận (chống thuộc lòng máy móc). Cần nhớ rằng cả Engels, Lenin và Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh cái vĩnh hằng bất biến, còn lại trong chủ nghĩa/lý thuyết của Marx là ph−ơng pháp (ph−ơng pháp luận), tinh thần xử lý vấn đề. Thậm chí Engels và Lenin còn nói rằng, đó chỉ mới là bắt đầu của một hệ ph−ơng pháp mới trong nghiên cứu xã hội và giải quyết vấn đề lịch sử (mà chúng ta hay nhắc tới là nhấn mạnh ph−ơng pháp phân tích cụ thể tình hình cụ thể, dĩ bất biến ứng vạn biến, chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo,...). Cho nên, cần phân biệt đâu là quy luật, nguyên lý cơ bản, đâu chỉ là phái sinh, và đâu là dự báo, mặc dù các công trình dự báo, mà dự báo là khó trúng, có thể sai hay không thích hợp khi thời thế thay đổi (không nên biến dự báo thành nguyên lý). Nh−ng cũng cần phân biệt xu thế tất yếu với dự báo cụ thể các hình thức. Hiện nay có quan niệm rằng CNXH phi thị tr−ờng, phi t− hữu, phi pháp quyền (tức thực thi “chuyên chính vô sản”)... nh− mô hình thế kỷ XX là sai Về một số thách thức 17 trong dự báo của Marx. Cần hiểu và lý giải thế nào? CNXH của Marx là CNXH hậu t− bản, khi đó mức độ thị tr−ờng hay còn hình thức t− hữu thế nào cần phải nghiên cứu. Còn trong thực tế CNXH kiểu Xô Viết, kiểu mao ít là CNXH công xã pha màu sắc phong kiến, tiểu t− sản (ph−ơng thức sản xuất châu á), tức “CNXH” tiền t− bản. Hiện nay các mô hình CNXH đổi mới nh− Trung Quốc, hay Việt Nam thì về lý luận là mô hình dự báo có tính xu h−ớng. Về mặt thực tế thì trình độ kinh tế xã hội và công nghệ chính trị còn thua xa CNTB phát triển, nghĩa là mới ở mức CNTB trung bình thậm chí nh− ở Việt Nam còn thấp hơn nữa. CNXH hiện thực còn mang tính thử nghiệm lịch sử. Có ng−ời còn cho rằng mang tính nhân tạo, nghĩa là ch−a thật sự theo kiểu lịch sử - tự nhiên. Tuy nhiên, cần thấy rằng với thời kỳ Đổi mới, thì xã hội chúng ta đã và đang chuyển theo h−ớng tiến hóa kiểu lịch sử - tự nhiên hơn nhiều. Không có ph−ơng pháp luận về CNXH hậu TBCN và bài học về CNXH tiền TBCN (CNXH, lúc đầu mới nh− một sự đối lập, đối sách thuần túy khác CNTB) thì đánh giá sai, đúng về CNXH khoa học - nhân văn của Marx là khó chính xác. Trở lại vấn đề nội dung để nói rõ ph−ơng pháp luận và rèn ph−ơng pháp luận. Đó là ch−a kể cần có thêm t− duy về ph−ơng pháp mới, hiện đại hơn nh− ph−ơng pháp hệ thống phức hợp (hợp trội - đột sinh), ph−ơng pháp bổ sung, ph−ơng pháp phi tất định,... Cần h−ớng mạnh việc học trên cơ sở hiểu biết thực tế và nguyên lý ph−ơng pháp luận nên tiến đến phân tích nguyên nhân các sự kiện, biết đ−ợc nguyên nhân sẽ biết đ−ợc cách giải quyết. Vì vậy, rất cần logic biện chứng. Tóm lại, cách đặt vấn đề trên đây mang tầm đổi mới triết học trong cả hoạt động nghiên cứu và giảng dạy có ý nghĩa lâu dài, vĩ mô, nh−ng có vấn đề có thể làm ngay và mang tính vi mô cụ thể có thể vận dụng đ−ợc. Để v−ợt qua các thách thức nói trên, then chốt là có nghiên cứu sâu, cập nhật thông tin và có bản lĩnh khoa học, bản lĩnh chính trị theo h−ớng dân chủ hóa, khoa học hóa và thực tiễn hóa trong hoạt động nghiên cứu và giảng dạy triết học. Tài liệu tham khảo 1. Sự t−ơng đồng giữa khoa học và nhân điện. 2. Con ng−ời sống trong vũ trụ đa chiều. vn 3. Lê Văn Tuấn. Lập thuyết vũ trụ cứu rỗi con ng−ời. Báo Ng−ời Hà Nội, tháng 2/2012. 4. Nguồn gốc và tiến hóa vũ trụ. 5. Hồ Bá Thâm. Ph−ơng pháp luận duy vật nhân văn, nhận biết và ứng dụng. H.: Văn hóa - thông tin, 2005. 6. Hồ Bá Thâm. T− t−ởng Hồ Chí Minh và triết học phát triển. Tp. Hồ Chí Minh: Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2007. 7. Hồ Bá Thâm. Đổi mới nghiên cứu và giáo dục khoa học xã hội, nhân văn. H.: Chính trị quốc gia, 2006.
File đính kèm:
- ve_mot_so_thach_thuc_trong_nghien_cuu_triet_hoc_hien_nay.pdf