Về hệ số tác động của tạp chí, chỉ số trích dẫn và chất lượng của một bài báo khoa học
TÓM TẮT: Bài viết này phân tích những quan điểm khác nhau về bản chất và giá trị hệ số tác động
“impact factor” của một tạp chí, về chỉ số trích dẫn “citation index” và chất lượng các bài báo đăng trong
tạp chí đó. Những định nghĩa, phương pháp tính toán, cách đánh giá, xếp hạng uy tín của tạp chí và các
nhà khoa học dựa trên hệ số tác động cũng được phân tích. Bài viết này còn tập hợp những tư liệu và bài
viết gần đây nhất trong các Hội thảo quốc tế của nhiều chuyên gia hoạt động trong công tác biên tập tạp
chí, đại diện của các tổ chức và các nhà tài trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học, các nhà xuất bản
trên thế giới. Trong bài viết này chúng tôi cũng muốn đưa ra những quan điểm về sự bất cập khi sử dụng
một cách máy móc, hoặc trong một số trường hợp có thể gần như lạm dụng hệ số tác động để đánh giá
chất lượng của một bài báo riêng rẽ, uy tín của tác giả có công trình đó như thế nào trên thế giới hiện nay
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về hệ số tác động của tạp chí, chỉ số trích dẫn và chất lượng của một bài báo khoa học
báo phải khó khăn nếu chỉ dựa vào hệ số trích dẫn trong tạp chí B đều có ảnh hưởng hay giá trị cao của tạp chí, thí dụ, ngay cả trong trường hợp hai hơn ở tạp chí A. Thí dụ, nếu xét trong trường bài báo trong hai tạp chí A và tạp chí B ở trên hợp cụ thể (dòng cuối cùng), số lượng trích dẫn có số lượng trích dẫn bằng nhau, nhưng rất khó của một bài báo trong tạp chí A (= 27), cao hơn để xác định rõ sự khác nhau khi một bài của tạp nhiều số trích dẫn bài báo khác trong tạp chí B chí A có 50 trích dẫn trong các tạp chí khác có (= 11). Trong những trường hợp này, sẽ có kết hệ số tác động cao, trong khi đó, một bài báo luận không công bằng đối với tác giả có bài khác ở tạp chí B có 50 lần trích dẫn nhưng lại đăng trong tạp chí A; tương tự ở dòng thứ hai trong các tạp chí có hệ số tác động thấp (?). 270 TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3): 265-274 Khi viết bài này, tác giả hiểu rằng việc đánh được sử dụng từ năm 2006. Theo như đã nói ở giá và chấp nhận các tạp chí để được ISI chỉ trên, nếu mục đích là giáo dục, khi đó chúng ta mục trong SCI (Scientific Citation Index®) và có thể không cần phải nói rằng số lần một bài SCIE (Scientific Citation Insex ExpandedTM) về báo được truy cập làm chỉ số hợp lệ tốt hơn việc cơ bản như nhau, chỉ có sự khác nhau duy nhất lấy thước đo là chỉ số trích dẫn (?). Ở đây, sẽ về môi trường lưu giữ số liệu. SCI chỉ lưu giữ ở không cần thiết phải tính tương quan giữa số lần định dạng CD/DVD, còn SCIE lưu giữ ở định truy cập và chỉ số trích dẫn. Lý do ở chỗ, như dạng online. Ngoài ra, tất cả tạp chí được chỉ trên đã nói, nếu lấy tương quan sẽ xảy ra tình mục ở SCI có thể tìm thấy trong cơ sở dữ liệu trạng một số bài báo dung lượng quá lớn mà SCIE, nhưng không phải tất cả tạp chí được chỉ theo cổng trực tuyến rất khó tải xuống, điều này mục trong SCIE có trong cơ sở dữ liệu SCI. dẫn đến chỉ số được trích dẫn không cao. Có một thực tế vẫn còn gặp trong nhiều Một hiện tượng tương đối phổ biến trong trường hợp, đó là một số tổ chức tài trợ và cá xuất bản hiện nay là vì lý do bản quyền, độc giả nhân các nhà khoa học ít quan tâm đến hệ số tác không được phép truy cập những kết quả nghiên động của tạp chí để đánh giá và xếp hạng bài cứu bởi chính sách của các nhà tài trợ. Nếu điều báo khoa học và vẫn cho rằng bài báo đăng này xảy ra, liệu khi đó sẽ có tình trạng tăng số trong tạp chí được chỉ mục trong SCI hiển nhiên lần truy cập nhiều hơn số trích dẫn hay không có giá trị cao hơn so với bài báo đăng trong tạp (?). Một bài báo có giá trị giáo dục cho cả cộng chí được chỉ mục trong SCIE. Đây cũng có thể đồng cần phải đạt mục đích giáo dục nhiều hơn là sự chủ quan không nên có, bởi vì, có khá một bài báo đóng vai trò phục vụ nhu cầu của nhiều tạp chí được chỉ mục trong SCIE có hệ số một cộng đồng nhỏ các nhà khoa học. tác động cao hơn tạp chí được chỉ mục trong Những nhà nghiên cứu ở Los Alamos cũng SCI. Thí dụ, theo cơ sở dữ liệu năm 2008, tạp như ở một số nơi khác [4] vẫn đang tìm kiếm hệ chí Journal of Natural History, ISSN 0022-2933 thống những lựa chọn, hệ thống sẽ tính toán (được chỉ mục trong SCI) có hệ số tác động là việc sử dụng cũng như trích dẫn. Tuy nhiên, hãy 0,627, trong khi đó, một số tạp chí khác như còn sớm để khẳng định rằng, đối với những lĩnh Zoosytema, ISSN 1280-9551 và ZOOTAXA, vực đề tài có số lượng lớn người quan tâm, hệ ISSN 1175-5326 (được chỉ mục trong SCIE) có số tác động và hệ số sử dụng có tương quan hệ số tác động cao hơn, tương ứng là 0,638 và với nhau. 0,740. Đó là chưa nói đến việc hệ số tác động của mỗi tạp chí lại luôn thay đổi theo thời gian. Hiện nay, trong một số lĩnh vực khoa học còn sử dụng hai chỉ số khác để đánh giá, đó là Một trường hợp khó khăn nữa có thể vẫn chỉ số h “h-index” và chỉ số g “g-index”. Thí xảy ra cho dù có thể dựa vào hệ số tác động của dụ, trong lĩnh vực khoa học như vật lý, với mục tạp chí để đánh giá chất lượng của bài báo rồi đích định lượng hiệu xuất được gọi là tầm ảnh qui chiếu trong việc đánh giá uy tín các nhà hưởng của một nhà khoa học, chỉ số h đã được khoa học, đó là vị trí của tác giả và đồng tác giả đề xuất như là một công cụ để xác định uy tín trong bài báo đó. Thí dụ, sẽ không công bằng tương đối của các nhà vật lý lý thuyết. Chỉ số nếu cứ chắc chắn cho rằng, đồng tác giả một bài này dựa trên hầu hết số bài báo được trích dẫn báo với rất nhiều tác giả đứng tên trong tạp chí và số lần trích dẫn những bài báo này. Chỉ số có hệ số tác động cao lại có uy tín cao hơn tương tự này có thể được áp dụng cho một những tác giả độc lập hoặc tác giả chịu trách nhóm các nhà khoa học, thí dụ cho một phòng nhiệm chính (corresponding author) của một nghiên cứu, một trường đại học hoặc một quốc công trình đăng trong tạp chí có hệ số tác động gia. Chỉ số h đưa việc nhấn mạnh vào việc một thấp hơn. lượng lớn trích dẫn cho một số ít bài báo và Giải pháp lựa chọn xem như bằng một số lượng lớn bài báo. Hiện nay, đã có một phương pháp theo tiêu Chỉ số “g” cũng tương tự như trên và được chuẩn công nghiệp mới để tính số lượng truy hiểu như sau: một loạt bài báo nào đó được xếp cập nội dung của một tạp chí (Counter 2.0) đã theo thứ tự giảm dần theo số lượng trích dẫn của 271 Khuat Dang Long chúng, chỉ số g là số lượng có trích dẫn nhiều về mặt học thuật, có lẽ điều quan trọng để các nhất. nhà quản lý hoặc những nhà tài trợ nghiên cứu Có lẽ tác động của một bài báo riêng rẽ tốt trên thế giới vẫn chỉ đơn thuần và duy nhất dựa nhất được đánh giá qua số lần trích dẫn, và tất nhiều vào hệ số tác động của tạp chí để đánh giá nhiên, cho dù không phải theo tỉ lệ 1:1 giữa số hoặc so sánh chất lượng và tiềm lực khoa học lần trích dẫn của một bài báo hoặc với chất của một quốc gia, một cơ sở nghiên cứu hay cá lượng bài báo hoặc hệ số tác động của tạp chí có nhân những nhà khoa học. trích dẫn, vì ở đây, còn có một số bài báo vẫn tiếp tục có số trích dẫn kéo dài theo thời gian, KẾT LUẬN trong khi những bài báo khác chỉ được trích dẫn Hệ số tác động của một tạp chí chỉ là một nhiều nhưng trong một thời gian ngắn. Kết quả trong những cách tính để mô tả tác động mà cuối cùng, những bài báo được trích dẫn trong những tạp chí có thể có được trong các tài liệu thời gian dài sẽ có số lần trích dẫn nhiều hơn. nghiên cứu. Giá trị của hệ số tác động chịu ảnh Cuối cùng, chất lượng và tầm quan trọng hưởng bởi lĩnh vực khoa học, loại tạp chí, số của một bài báo là ý kiến đánh giá của người lượng bài đăng của một tạp chí và cách tính phản biện. Ở đây, cần phải tính đến nhiều yếu tố toán được sử dụng. bao gồm tham vọng nghiên cứu khám phá, giá Cách tính toán thống kê hệ số tác động thay trị mới của phương pháp luận, tiến bộ khoa học đổi từ năm này qua năm khác chỉ ra việc cần hết trong lĩnh vực nghiên cứu, kết quả trực tiếp của sức thận trọng để hiểu được rõ một tạp chí có nghiên cứu được công bố ở đâu, có hay không chất lượng giảm đi hay tăng lên theo sự thay đổi sự đóng góp của mỗi tác giả trong bài báo đó của hệ số tác động. Việc chỉ sử dụng giá trị v.v tuyệt đối của hệ số tác động sẽ vượt khỏi phạm Ngay cả những tạp chí có hệ số tác động cao vi của các tạp chí khác trong cùng lĩnh vực và cũng không ủng hộ việc sử dụng hệ số tác động sẽ không khách quan và công bằng, có khi còn để đánh giá một cá nhân. Năm 2005, ban biên vô nghĩa, bởi vì, một tạp chí có thể được xếp tập của tạp chí Nature (Nature 435: 1003-1004) vào nhóm trên trong một lĩnh vực lại chỉ tương [19] đã chỉ ra rằng, có tới 89% hệ số tác động đương với tạp chí khác ở nhóm dưới. Còn nếu của năm 2005 chỉ được tính từ 25% số bài báo mở rộng việc sử dụng hệ số tác động của một được đăng ở Nature vào năm đó. Trong số đó, tạp chí để áp dung máy móc cho tác giả hoặc bài có số lần trích dẫn cao nhất đến 1000 lần, nhóm tác giả có bài trong tạp chí đó lại càng còn bài có số trích dẫn ít nhất dưới 20 lần. không chắc chắn. Có những sai số có thể cao tới mức làm cho bất cứ một giá trị nào trở nên vô Với cách giải thích và những quan điểm nghĩa. trình bày ở trên, ở đây, có thể thấy được rằng, sẽ không công bằng nếu một bài báo đăng ở một Đơn vị để đo đếm số lượng trích dẫn đã làm tạp chí quốc tế được trích dẫn tới 100 lần hoặc phong phú thêm cơ cở dữ liệu trích dẫn của ISI, 50 lần lại phải so sánh thấp hơn nhiều bài báo điều này có thể giúp cho việc hiểu được một khác chỉ đơn giản vì bài đó được đăng trong tạp cách thấu đáo rất có lợi trong nghiên cứu học chí Nature nhưng chỉ có được trích dẫn trong thuật và truyền bá thông tin. Hệ số tác động, các tạp chí khác dưới 20 lần như đã nói ở trên. như một đo lường qua trích dẫn còn có lợi để Cũng chính vì vậy, hiện nay nhiều tạp chí xác định những tạp chí có ảnh hưởng trong số không xuất bản truyền thống với ấn phẩm chỉ ở tài liệu bắt buộc phải có trong một bài báo. Hơn dạng bản cứng duy nhất, mà còn xuất bản dưới nữa, những chỉ số này không phải là một đại dạng được truy cập mở “open access”. lượng đo lường trực tiếp về giá trị của một bài báo, vì vậy, mới được khuyến cáo cần cân nhắc Những vấn đề được bàn luận ở trên cho thấy thận trọng khi sử dụng. rằng, hệ số tác động (dựa theo chỉ số trích dẫn) không cho chúng ta biết nhiều khi đa số vẫn cho Cuối cùng, điều quan trọng trong bài viết rằng hệ số tác động của tạp chí là giá trị tuyệt này không phải là thông điệp cho những tổ chức đối của bài báo đăng trong tạp chí đó. Thực ra, và các nhà tài trợ dừng việc khuyến khích các 272 TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3): 265-274 nhà nghiên cứu cho đăng các công trình của họ Science. Proceedings of the International ở những tạp chí có hệ số tác động cao. Hệ số tác Conference on Scientific Information. động của tạp chí để theo dõi sự thay đổi mức độ Washington, D. C.: National Academy of ảnh hưởng của tạp chí theo thời gian qua số Sciences - National Research Council, 1959, lượng trích dẫn các bài báo đăng trong đó. Vì 1: 461-474. vậy, khách quan mà nói, hệ số tác động cao của 11. Garfield E., 2006. The history and meaning tạp chí không luôn đồng nghĩa với giá trị của of the journal impact factor. JAMA, 295(1): một bài báo riêng rẽ được đăng trong tạp chí đó. 90-93. TÀI LIỆU THAM KHẢO 12. Garfield E., 2011. Full Text downloads and citations: Some reflections. Keynote Lecture 1. Al Benna S., Clover J., 2007. The role of the at the seminar on Scientific Measurement journal impact factor: choosing the optimal and Mapping, Santa Fe, NM. From: source of peer-reviewed plastic surgery information. Plastic & Reconstructive afe2011.pdf. Surgery, 119(2): 755-756. 13. Jeang K. T., 2007. Impact factor, H index, 2. Amin M., Mabe M., 2000. Impact factors: peer comparisons, and Retrovirology: is it use and abuse. Elsevier: Perspectives in time to individualize citation metrics?. Publishing, 1: 1-6. Retrovirology, 4: 42. 3. Andersen J., Belmont J., Cho C. T., 2006. 14. Kam P. C., 2005. Impact factor: overrated Journal impact factor in the era of or misused? -editorial-. Anaesthesia and expanding literature. [Review] [14 refs]. Intensive Care, 33(5): 565-566. Journal of Microbiology, Immunology & Infection, 39(6): 436-443. 15. Kelly C. D., Jennions M. D., 2007. H-index: age and sex make it unreliable. [comment]. 4. Bollen J., van de Sompel H., 2008. Usage Nature, 449(7161): 403. impact factor: The effects of sample characteristics on usage-based impact 16. Ketcham C. M., 2007. Predicting impact metrics. Journal of the American Society for factor one year in advance. Laboratory Information Science and Technology, 59: Investigation, 87(6): 520-526. 136-139. 17. Lenhard M. S., 2007. Limitations of the 5. Brink A. J., 2004. Impact factor: use and impact factor. European Journal of abuse. Cardiovascular Journal of Southern Obstetrics Gynecology and Reproductive Africa, 15(1): 5-7. Biology, 134(2): 270-271. 6. Broome M. E., 2005. Ratings and rankings: 18. McVeigh M. E., 2004. Beyond impact judging the evaluation of quality.[see factors: understanding the data in the journal comment]. Nursing Outlook, 53(5): 215-216. citation reports. Physiologist, 47(6): 458-460. 7. Eysenbach G., 2006. Citation advantage of 19. Nature, 2005. Impact factors are overrated, open access articles. Plos Biology, 4(5): 157. 435(7045): 1003-1004. 8. Freshwater D., 2006. Impact factors and 20. Nayak B. K., 2006. The enigma of impact relevance of research outputs: one step factor. Indian Journal of Ophthalmology, forward, two back?. Journal of Psychiatric 54(4): 225-226. & Mental Health Nursing, 13(5): 473-474. 21. Nieminen P., Carpenter J., Rucker G., 9. Garfield E., 1955. Citation indexes to Schumacher M., 2006. The relationship science: a new dimension in documentation between quality of research and citation through association of ideas. Science, 122: frequency. BMC Medical Research 108-111. Methodology, 6: 42. 10. Garfield E., 1958. A Unified Index to 22. Ronco C., 2006. Scientific journals: who 273 Khuat Dang Long impacts the impact factor?. International Cardiology, 20(9): 922-923. Journal of Artificial Organs, 29(7): 645-648. 28. Https://wiki.oulu.fi/display/tor/1.3.1.7.01+J 23. Roussakis A. G., 2007. What does impact ournal+Citation+Reports. factor depend upon?. Journal of B.U.ON., 29. Https://wiki.oulu.fi/display/tor/1.3.1.7.13+C 12(3): 415-418. itation+metrics. 24. Scully C., Lodge H., 2005. Impact factors 30. Https://wiki.oulu.fi/display/tor/1.3.1.1+Eval and their significance; overrated or uating+articles. misused?. British Dental Journal, 198(7): 391-393. 31. Https://wiki.oulu.fi/display/tor/1.3.1.2+Eval uating+journals. 25. Smith E. R., 2006. The journal impact factor. Canadian Journal of Cardiology, 32. 22(9): 787-788. nder.fcgi?artid=2212341. 26. Smith E. R., 2004. Journal impact factor: 33. What does it mean?. Canadian Journal of nder.fcgi?artid=2206035. Cardiology, 20(9): 922-923. 34. 27. Smith E. R., 2004. Journal impact factor: 35. What does it mean?. Canadian Journal of /.../journal_impact_factors.pdf. NOTES ON THE IMPACT FACTOR OF JOURNAL, CITATION INDEX AND QUALITY OF A PUBLISHED SCIENTIFIC PAPER Khuat Dang Long Institute of Ecology & Biological Resources, VAST SUMMARY This paper presented an overview of the journal impact factors, citation index and discussed about the limitations of using the journal impact factor for the evaluation of the quality of papers and the researchers who wrote those papers without considering the real contribution of co-authors in multi-author research papers published in a journal. The paper also showed an analysis of viewpoints of different authors about the use and abuse of impact factors based on data of the ISI® Journal Citation Reports (JCR®) in recent years. Keywords: Citation index, impact factor, journal, quality of paper. Ngày nhận bài: 12-2-2012 274
File đính kèm:
- ve_he_so_tac_dong_cua_tap_chi_chi_so_trich_dan_va_chat_luong.pdf