Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Tóm tắt

Vấn đề thực hành dân chủ là vấn đề lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí

Minh không những xây dựng một hệ thống quan điểm dân chủ mà còn ra sức thực

hành dân chủ. Dân chủ càng tiến bộ xã hội càng văn minh. Ngược lại, xã hội càng

phát triển nhu cầu về dân chủ trong quần chúng nhân dân càng cao. Trong giai

đoạn hiện nay, Đảng ta học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân

chủ vào công cuộc lãnh đạo xây dựng đất nước.

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay trang 1

Trang 1

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay trang 2

Trang 2

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay trang 3

Trang 3

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay trang 4

Trang 4

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay trang 5

Trang 5

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay trang 6

Trang 6

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 5020
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Vấn đề thực hành dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
 cả lực lƣợng của nhân dân đƣa cách mạng tiến lên”3. 
 Dân chủ đƣợc Bác Hồ giải thích ngắn gọn, súc tích là “dân làm chủ và dân là 
chủ”. Phát huy dân chủ là tìm mọi cách bàn bạc, giải thích cho dân hiểu rõ, ngay cả 
những việc trực tiếp có lợi cho dân, nếu làm theo cách hạ lệnh, cƣỡng bức, thì dân 
không hiểu, dân oán. Dân oán, dù tạm thời có chút thành công, nhƣng về mặt chính trị 
là thất bại. Theo Bác, muốn thật sự tôn trọng Nhân dân thì phải hiểu dân. Chính tài dân, 
sức dân, của dân, quyền dân, lòng dân, sự khôn khéo, hăng hái, anh hùng đã tạo nên 
“cái gốc” của dân. Cùng với thái độ đánh giá cao vai trò của Nhân dân, ý thức tôn trọng 
Nhân dân còn phải chú ý không xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi hợp pháp, không xúc 
phạm Nhân dân; phải luôn tôn trọng và giữ gìn của công của Nhân dân. 
 Hồ Chí Minh không những xây dựng một hệ thống quan điểm dân chủ mà còn ra 
sức thực hành dân chủ. Nói đến nƣớc ta, điểm Ngƣời nhấn mạnh hàng đầu đó là nƣớc 
dân chủ. Nói đến Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Để làm cho Đảng mạnh, 
2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.293. 
3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.376. 
 425| 
 Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại 
thì phải mở rộng dân chủ”4, trong Đảng “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng 
viên bày tỏ hết ý kiến của mình”5. Mặt khác, mỗi đảng viên bất cứ ở địa vị nào cũng 
phải làm gƣơng dân chủ. Nói đến nhân dân, Ngƣời khẳng định nhân dân là chủ và 
nhân dân làm chủ. Hai cặp phạm trù đó khẳng định vị thế, năng lực và trách nhiệm của 
ngƣời dân. 
 Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã rất coi trọng xây dựng một chế độ dân chủ 
và chỉ rõ vai trò, ý nghĩa của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây 
dựng nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “dân chủ là bản 
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực của phát triển xã hội; dân chủ 
là dân là chủ và dân làm chủ; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết 
mọi khó khăn để giành thắng lợi”6. 
 Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Dân chủ có thể 
hiểu một cách ngắn gọn là nhân dân nắm chính quyền. Trong một nƣớc dân chủ thì địa 
vị cao nhất là dân, vì mọi quyền hạn là của dân, mọi lợi ích là vì dân. “Dân chủ” đối lập 
với “quan chủ” là một quan niệm thể hiện đƣợc bản chất của khái niệm dân chủ trong 
cấu tạo quyền lực của xã hội. Địa vị cao nhất là dân vì “Trong bầu trời không gì quý 
bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lƣợng đoàn kết của nhân dân”7. 
 Địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ. Vì vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, 
nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân. Trong Đảng phải thực hành 
dân chủ rộng rãi, có thực hiện tốt dân chủ trong Đảng mới có dân chủ trong xã hội. Còn 
đoàn thể là tổ chức của dân phấn đấu cho dân liên lạc mật thiết giữa dân với Chính phủ, 
Đảng, Nhà nƣớc phải thực hiện những cải cách xã hội để không ngừng nâng cao đời 
sống vật chất và văn hóa của nhân dân, thực hiện dân chủ thật sự. Phong cách Hồ Chí 
Minh về dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng Nhân dân, đề cao vai trò, vi trí của Nhân 
dân. Dù đang giữ cƣơng vị Chủ tịch nƣớc bận rất nhiều công việc đối nội, đối ngoại, 
nhƣng về với dân, đến với quần chúng để học dân, hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, 
thấy dân làm, để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý là nhu cầu thƣờng trực của Bác. 
 Ngay trong bản Di chúc, Ngƣời cũng đã đề cập đến những vấn đề cốt yếu của 
công tác xây dựng Đảng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là Đảng 
cầm quyền”. Để đáp ứng đƣợc nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn vững mạnh 
4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.241. 
5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.118. 
6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.249. 
7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.453. 
|426 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
về chính trị, tƣ tƣởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với Nhân dân, không ngừng nâng cao 
bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ 
nam cho mọi hoạt động của mình. Cần phải giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực 
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo 
đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của cán bộ, 
đảng viên. 
 Theo Di chúc của Ngƣời, để xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Đảng 
ta phải thực hành dân chủ thực sự. Nhờ có dân chủ thì Đảng mới khơi dậy, nâng cao 
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc 
quan trọng, là một trong những quy luật phát triển của Đảng. Trong Di chúc, Ngƣời 
viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thƣờng xuyên và nghiêm chỉnh tự phê 
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của 
Đảng”8. Di huấn thiêng liêng này là những nội dung cơ bản, cốt lõi nhất trong hệ thống 
lý luận về xây dựng Đảng cũng nhƣ việc thực hiện dân chủ của Hồ Chí Minh. Những 
nội dung ấy thể hiện triết lý giản đơn, nhƣng lại rất khoa học và biện chứng của Ngƣời. 
Tự phê bình và phê bình cũng là nét nổi bật trong phong cách lãnh đạo của Hồ Chí 
Minh. Ở cƣơng vị Chủ tịch nƣớc, Ngƣời luôn là tấm gƣơng sáng thực hành dân chủ 
ngay trong các bài viết và nói chuyện, với mong muốn đảng viên và nhân dân hiểu rõ 
bản chất, từ đó thực hành đúng, đầy đủ về dân chủ và thực hành dân chủ. Chúng ta thấy 
đƣợc quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ rất phong phú, sâu sắc và cụ thể. Ngƣời 
vẫn luôn thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm túc, nêu một tấm gƣơng sáng về 
đức tính trung thực, thẳng thắn, thái độ và phƣơng pháp phê bình cho cán bộ, đảng 
viên. Theo Ngƣời, tự phê bình và phê bình phải thƣờng xuyên, nghiêm túc, không nể 
nang, qua loa đại khái, hình thức. Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp cho bản 
thân và đồng chí đồng nghiệp ngày càng tiến bộ. Tuyệt đối không phê bình vì mâu 
thuẫn cá nhân, động cơ cá nhân mà phê bình theo kiểu “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm 
vết” nhằm trù dập, đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Nếu ngừng việc tự phê bình và phê bình tức 
là ngừng tiến bộ, là thoái bộ... Việc tự phê bình và phê bình sẽ giúp tập thể và cá nhân 
nhận ra khuyết điểm để sửa chữa, không ngừng hoàn thiện. 
 Tự phê bình và phê bình là cách thức tốt nhất để thực hành dân chủ rộng rãi trong 
Đảng, làm cho Đảng trong sạch, cán bộ, đảng viên tiến bộ, giữ vững đƣợc uy tín của 
Đảng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một 
Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, 
8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.611. 
 427| 
 Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại 
vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm 
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó, nhƣ thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc 
chắn, chân chính”9. Đồng thời, dân chủ là một trong những yếu tố quan trọng để thực 
hiện phê bình. Nếu không thực hành dân chủ thì cả với cơ quan lãnh đạo, cán bộ lãnh 
đạo và cán bộ, đảng viên “dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ 
không dám phê bình”. 
 Dân chủ vừa là phƣơng pháp thể hiện mối quan hệ mới tốt đẹp trong xã hội vừa là 
nội dung của một cuộc sống mới của nhân dân, cuộc sống mà ngƣời dân đang là chủ 
thật sự của đất nƣớc, của xã hội. Dân chủ là động lực để xây dựng một xã hội ấm no, 
hạnh phúc, tự do và bình đẳng. Dân chủ là nhân tố, điều kiện có tính quyết định đảm 
bảo sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với xã hội, là vấn đề tiên quyết cho 
sự phát triển bền vững của Đảng. Thực hành dân chủ và dân chủ thật sự vừa là nguyên 
tắc, nhƣng cũng là bản chất, đạo đức và văn hóa lãnh đạo của Đảng ta. 
2.2. Sự vận dụng tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay 
 Dân chủ và phát huy dân chủ không chỉ đƣợc khẳng định trong chủ trƣơng, 
đƣờng lối của Đảng mà còn đƣợc thể chế hóa và đƣợc đảm bảo thực hiện thông qua 
Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nƣớc. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ 
các quyền con ngƣời, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội 
đƣợc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm. 
 Việc thực hành dân chủ đã và đang tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm 
chủ của Nhân dân, thu hút Nhân dân tham gia quản lý Nhà nƣớc, kiểm tra, giám sát các 
hoạt động của Nhà nƣớc, của các cấp chính quyền; khắc phục tệ nạn quan liêu, tham 
nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức, 
viên chức nhà nƣớc, đóng góp tích cực vào việc cải cách hành chính; góp phần xây 
dựng bộ máy chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, tăng cƣờng mối quan hệ mật 
thiết giữa Đảng và Nhân dân; đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển kinh tế - xã 
hội chung của đất nƣớc. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đánh giá, quyền làm chủ 
của Nhân dân đƣợc phát huy tốt hơn trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy 
Đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cƣờng tiếp xúc đối thoại với Nhân dân, tôn trọng 
các ý kiến khác nhau của Nhân dân. 
 Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, việc thực hiện dân chủ và phát huy dân chủ 
trong Nhân dân vẫn còn những hạn chế nhất định. Dân chủ trong Đảng chƣa đƣợc thực 
9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.260. 
|428 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
hiện đầy đủ, nghiêm túc, vẫn còn phong cách lãnh đạo, quản lý độc đoán, chuyên 
quyền, thậm chí gia trƣởng; nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít; chấp hành nghị 
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc không nghiêm. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần 
thứ X của Đảng cũng đã nhận định: “Một số cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ lãnh đạo 
thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dƣới; cán bộ 
lãnh đạo ở một số nơi gia trƣởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ 
hình thức”10. 
 Nhiều tổ chức Đảng có hiện tƣợng cấp ủy và tổ chức cấp dƣới không dám phê 
bình thẳng thắn cấp ủy cấp trên, nhất là ngƣời đứng đầu. Trong sinh hoạt đảng, do 
những lý do khác nhau, nhiều đảng viên không dám nói chính kiến của mình, ngại đấu 
tranh, phê bình khuyết điểm của cán bộ đảng, chính quyền cấp trên và cả của đồng chí 
mình, né tránh các vấn đề phức tạp. Tình trạng thiếu dân chủ thƣờng đi đôi với hiện 
tƣợng quan liêu, gia trƣởng, độc đoán, chuyên quyền. Một số vụ việc tham nhũng lớn 
vừa qua, hầu nhƣ không một vụ nào do tổ chức Đảng và đảng viên tại chỗ phát hiện mà 
đều do đảng viên cấp dƣới, quần chúng hoặc cơ quan báo chí, cơ quan pháp luật phát 
hiện. Điều đó cho thấy sự yếu kém về sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên. 
 Dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nƣớc chƣa đƣợc thực hiện đầy đủ, vẫn còn 
tình trạng dân chủ hình thức khiến dân chủ không đƣợc phát huy, ảnh hƣởng đến quyền 
lợi một số bộ phận quần chúng và tính thống nhất trong quản lý nhà nƣớc. Quyền làm 
chủ của Nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm, có tình trạng lợi dụng 
dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối ảnh hƣởng đến an ninh quốc gia, 
trật tự, an toàn xã hội. 
 Hiện nay, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí 
có những khuyết điểm kéo dài, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Nếu 
những căn bệnh nguy hiểm trên không đƣợc sửa chữa thì đó sẽ là thách thức đối với vai 
trò lãnh đạo của Đảng và sự bền vững của chế độ. Ở nhiều cấp bộ đảng, “Nguyên tắc 
tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hƣởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong 
Đảng”11. Tất cả những sai lầm và khuyết điểm trên đều bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, 
là do thực hành dân chủ không thƣờng xuyên trong sinh hoạt xây dựng Đảng, không 
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Công tác kiểm 
tra, giám sát, giữ gìn kỷ cƣơng, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chƣa thƣờng xuyên, ráo 
10 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.270. 
11 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.175-176. 
 429| 
 Phần III. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại 
riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang,không nghiêm túc; vai trò giám sát của 
nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chƣa đƣợc phát 
huy, hiệu quả chƣa cao. Để giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, theo tƣ 
tƣởng Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên, tổ chức Đảng thƣờng xuyên thực hành dân chủ: 
coi đó là thƣớc đo thang giá trị văn hóa, đạo đức cách mạng của Đảng trong quá trình 
tự đổi mới bản thân mình về kỷ cƣơng, tính chiến đấu, về tổ chức, nội dung và phƣơng 
thức lãnh đạo. 
 Tóm lại, qua hơn 30 năm đổi mới, những thành tựu về xây dựng nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa ở nƣớc ta rất quan trọng, góp phần tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp đổi 
mới, thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đúng nhƣ Văn kiện Đại hội XI 
đã nhận định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ”; “Dân chủ trong Đảng, trong các 
tổ chức và xã hội đƣợc mở rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân đƣợc phát huy 
tốt hơn. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi 
phạm pháp luật đƣợc coi trọng”12. 
III. KẾT LUẬN 
 Vấn đề thực hành dân chủ là vấn đề lớn trong tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh. Có thể 
nói tƣ tƣởng về dân chủ của Hồ Chí Minh là sự tiến bộ lớn, có đóng góp lớn vào nhận 
thức về dân chủ, thực hành dân chủ. Thực hiện theo tƣ tƣởng của Bác, Đảng đã lãnh 
đạo Nhân dân ta thu đƣợc nhiều thành tựu quan trọng, thực hành dân chủ rộng rãi, 
nghiêm túc tự phê bình và phê bình là một trong những bài học quan trọng đƣợc rút ra 
và tiếp tục thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Tƣ tƣởng của Ngƣời về chế độ dân chủ 
nhân dân chứa đựng những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, đƣợc Đảng và nhân dân ta 
kế thừa, phát huy trong sự nghiệp đổi mới đất nƣớc nhằm xây dựng thành công chủ 
nghĩa xã hội. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
 Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 
 Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
 3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, tập 7, tập 10, tập 12, tập 13, tập 15, Nxb 
 Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.158. 
|430 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_thuc_hanh_dan_chu_trong_tu_tuong_ho_chi_minh_va_su_va.pdf