Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam

Chức năng thông tin là chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí.

Báo chí ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của công chúng

và sự phát triển của báo chí cũng dựa trên sự gia tăng nhu cầu thông tin -

giao tiếp trong xã hội. Một xã hội từ thời nguyên thuỷ cũng đã có nhu cầu

thông tin, kết nối xã hội, hợp tác lao động, chống lại các mối nguy hiểm

Sự ra đời của báo chí chính là một cột mốc quan trọng đánh dấu nhu cầu

thông tin- giao tiếp đã ở một mức độ nóng bỏng, cấp thiết hơn rất nhiều và

khả năng đáp ứng của các phương tiện truyền tin đã đạt đến trình độ cao

hơn hẳn trước đó.

Báo chí thực hiện chức năng thông tin - giao tiếp là nhằm thực hiện

các chức năng khác. Mọi chức năng của báo chí đều được thực hiện thông

qua con đường thông tin. Báo chí thông tin để thực hiện chức năng giáo

dục, thông tin để thực hiện vai trò giám sát, quản lý xã hội, thông tin để

thực hiện chức năng văn hoá, giải trí.

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 6400
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam

Vai trò của báo chí trong việc bảo đảm và phát huy quyền được thông tin của người dân ở Việt Nam
gười dân ở Việt Nam 
 TS. Đỗ Chí Nghĩa, Phó Trưởng khoa Phát thanh- Truyền hình, 
 Học viện Báo chí và Tuyên truyền 
 Quyền được thông tin là quyền cơ bản của con người, được hiến 
pháp và pháp luật bảo vệ. Trong các kênh thông tin đó, thông tin báo chí 
đóng một vai trò không thể thay thế. 
 1. Chức năng thông tin của báo chí và việc bảo đảm quyền được 
thông tin của người dân 
 Chức năng thông tin là chức năng quan trọng hàng đầu của báo chí. 
Báo chí ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin giao tiếp của công chúng 
và sự phát triển của báo chí cũng dựa trên sự gia tăng nhu cầu thông tin - 
giao tiếp trong xã hội. Một xã hội từ thời nguyên thuỷ cũng đã có nhu cầu 
thông tin, kết nối xã hội, hợp tác lao động, chống lại các mối nguy hiểm 
Sự ra đời của báo chí chính là một cột mốc quan trọng đánh dấu nhu cầu 
thông tin- giao tiếp đã ở một mức độ nóng bỏng, cấp thiết hơn rất nhiều và 
khả năng đáp ứng của các phương tiện truyền tin đã đạt đến trình độ cao 
hơn hẳn trước đó. 
 Báo chí thực hiện chức năng thông tin - giao tiếp là nhằm thực hiện 
các chức năng khác. Mọi chức năng của báo chí đều được thực hiện thông 
qua con đường thông tin. Báo chí thông tin để thực hiện chức năng giáo 
dục, thông tin để thực hiện vai trò giám sát, quản lý xã hội, thông tin để 
thực hiện chức năng văn hoá, giải trí... 
 Thực hiện chức năng thông tin, báo chí phải bảo đảm độ chân thực, 
xác đáng, tính nhanh nhạy, kịp thời Thông tin báo chí phải ngồn ngộn tính 
thời sự, diễn tả những điểm nóng nhất, những vấn đề nổi cộm nhất trong đời 
sống. Tuy vậy, mảng thứ hai của thông tin báo chí là những thông tin có tính 
chuyên đề, ẩn chứa tầng sâu tri thức Điều này thể hiện rõ mục tiêu phục 
vụ xã hội, đáp ứng mọi nhu cầu thông tin chính đáng của công chúng. 
 Từ nhiệm vụ có tính chất đương nhiên đó, báo chí đã góp phần quan 
trọng đáp ứng quyền được thông tin của công chúng. Đây là một nội dung 
cơ bản được hiến pháp và pháp luật thừa nhận và được thực tiễn chứng minh 
một cách sinh động. Các văn bản pháp luật như hiến pháp, luật báo chí, luật 
phòng chống tham nhũng đều nêu cao vai trò của báo chí trong việc thực 
hiện chức năng thông tin cho người dân. Quy chế người phát ngôn, các quy 
định về cung cấp thông tin cho báo chí đang được quan tâm và hoàn thiện 
nhằm giúp báo chí tiếp cận thông tin nhanh, chính xác và hiệu quả nhất. 
 Người dân ngày càng tiếp cận tốt hơn với công nghệ thông tin hiện 
đại, đặc biệt là Internet, với khoảng 20 triệu người truy cập, chiếm 23,5% 
dân số, cao hơn mức trung bình của châu Á (18%). Với hơn 850 ấn phẩm 
báo in, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh và đài truyền 
hình kỹ thuật số mặt đất (đài truyền hình Việt Nam phủ sóng đến 85% hộ gia 
đình Việt Nam), 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên mạng 
Internet, báo chí đang là một phương tiện chủ lực trong việc đưa thông tin 
đến người dân và ngược lại đưa ý kiến, quan điểm, đánh giá và kiến nghị của 
người dân đến các cơ quan quản lý. 
 2. Các nội dung thông tin báo chí và nhu cầu thông tin cơ bản của 
người dân 
 Việc bảo đảm quyền được thông tin của người dân thông qua báo chí 
được thể hiện trên mấy phương diện chủ yếu sau: 
 Thứ nhất, báo chí thông tin về chủ trương, chính sách, các quy định về 
pháp luật trên mọi mặt đời sống. Những văn bản này theo luật định người 
dân có toàn quyền tiếp cận và thực tế việc phổ biến pháp luật đến người dân 
cũng là một ưu tiên trong chính sách của chính phủ. Tuy nhiên do sự hạn chế 
về kinh tế- xã hội cũng như tập quán làm việc nên việc trực tiếp đưa pháp 
luật đến người dân của cơ quan công quyền còn nhiều rào cản. Báo chí chính 
là kênh hữu hiệu phổ biến pháp luật đến công chúng. Đã có những thống kê 
cho thấy, trên 70% các quy định mới của pháp luật đến với công chúng 
thông qua báo chí. Thực tế rất ít người có thể đọc trọn vẹn Nghị quyết của 
Chính phủ về các giải pháp cấp bách về kìm chế và giảm tai nạn giao thông, 
nhưng quy định về việc bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao 
thông thì lập tức cả chục triệu người đều hiểu và lập tức thực hiện. Đó là sức 
mạnh thông tin của báo chí. 
 Người dân còn được tiếp cận thông tin pháp luật khi nhiều văn bản 
luật còn ở dạng dự thảo, cần người dân tham gia đóng góp ý kiến. Việc hoàn 
chỉnh các văn bản này, dự kiến việc thực thi trong thực tế, những vướng mắc 
và bất cập sẽ đầy đủ và thuyết phục hơn nhiều khi ngay từ đầu có sự tham 
góp của những người sẽ tuân thủ chúng. Nhiều bộ luật như luật dân sự, luật 
đất đai được Quốc hội chủ động thông qua báo chí để lấy ý iieesn nhân dân 
đã có hiệu quả tích cực. Một số văn bản dưới luật có nhiều yếu tố bất hợp lý 
đã bị phản bác ngay từ khi nó mới chỉ là dự thảo nhờ sự soi rọi của báo chí 
và ý kiến phản bác quyết liệt của dư luận như “thuế thu nhập dành cho hộ 
nông dân có thu nhập cao”, “thuế doanh thu dành cho hoạt động kinh doanh 
vận tải hành khách bằng mô tô hai bánh” 
 Thứ hai, báo chí thông tin cho người dân về những vụ việc tiêu cực, 
phanh phui những sai trái của các cá nhân vi phạm trong và ngoài bộ máy 
công quyền. Đây là một công việc khó khăn dù ở bất kỳ quốc gia nào, song 
ở Việt Nam nỗ lực của đội ngũ báo chí là đáng ghi nhận. Vụ việc ông Đoàn 
Văn Vươn bị cưỡng chế đất trái pháp luật ở Tiên Lãng Hải Phòng là một ví 
dụ nóng hổi. Chính việc bị hành xử thô bạo, nguy cơ bị tước đoạt tài sản đã 
mất bao xương máu, công sức gây dựng nên đã khiến người nông dân có 
bằng kỹ sư nông nghiệp này có hành vi manh động, nổ súng vào lực lượng 
cưỡng chế. Với cách thông tin khách quan, kiên trì, đầy quả cảm và trách 
nhiệm, báo chí đã giúp công chúng và các cơ quan Nhà nước tiếp cận vấn đề 
một cách khách quan, đa diện, đầy đủ hơn. Đó là một kênh thông tin quan 
trọng để các chuyên gia, các vị lãnh đạo lên tiếng phân tích về các góc độ 
khác nhau của vụ việc và Thủ tướng Chính phủ đã chính thức kết luận 
những sai trái của chính quyền cơ sở ở Tiên Lãng và Hải Phòng, nguyên 
nhận trực tiếp đẩy ông Đoàn Văn Vươn và người thân đến chỗ phạm tội. 
 Xét về loại hình, truyền hình vẫn đang chiến ưu thế trong việc hấp dẫn 
công chúng. Một cuộc khảo sát của chúng tôi ở khu vực đồng bằng sông 
Hồng (ĐBSH) năm 2007 với 500 phiếu hỏi cho thấy có tới 71,8% số người 
các tỉnh ĐBSH được hỏi cho rằng truyền hình là phương tiện thích tiếp cận 
nhất, trong khi con số đó ở Hà Nội là 54,3%. Ngược lại, có tới 29% người 
trên địa bàn Hà Nội được hỏi ý kiến cho rằng phương tiện họ thích nhất là 
Internet, so với 20% ở các tỉnh khác. Đặc biệt, tỷ lệ người chọn báo giấy là 
phương tiện thích tiếp cận nhất ở Hà Nội là 11,4%, cao gần gấp ba lần các 
khu vực được khảo sát còn lại thuộc ĐBSH chỉ đạt 3%. 
 Nhu cầu nghe đài cả ở Hà Nội và các khu vực khác của ĐBSH đều 
không cao, khi rất ít người coi đó là phương tiện thích tiếp cận nhất (Hà 
Nội: 5,2%; các khu vực khác: 5,0%). Điều này thoạt nghe có vẻ không hợp 
lý khi chúng ta vẫn quan niệm số người nghe đài phát thanh chủ yếu tập 
trung ở các vùng nông thôn. Thế nhưng, phân tích kĩ các số liệu thống kê 
thì rõ ràng, sự lựa chọn tối ưu của công chúng nông thôn ĐBSH, một khu 
vực có điều kiện dân trí cao hơn nhiều vùng nông thôn khác, điều kiện kinh 
tế và hạ tầng cơ sở khá tốt thì lựa chọn số một của họ vẫn là truyền hình 
(lên tới 70,4%). Ở nông thôn, chắc chắn số người theo dõi thông tin qua đài 
phát thanh vẫn rất cao, song đó vẫn không phải là lựa chọn số một của họ 
do tính chất hấp dẫn của hình ảnh mà truyền hình đem lại. Ngược lại, công 
chúng nghe đài phát thanh (cả thường xuyên và không thường xuyên) ở các 
đô thị lớn như Hà Nội lại không hề sụt giảm, thậm chí tỷ lệ này có phần cao 
hơn ở nông thôn. Lý do, quỹ thời gian của họ không thật dư dả, nhiều người 
tranh thủ nghe đài khi tập thể dục, khi đi trên xe ô tô 
 Số người coi đọc báo in là lựa chọn số một ở đô thị là 9,2%, cao gấp 
hơn hai lần ở nông thôn, trong khi số người coi tiếp cận Internet là kênh 
thông tin ưa thích nhất ở thành thị chỉ cao hơn nông thôn chưa đến 10% 
(29,2% so với 21,0%). Điều này cho thấy Internet đã “lấn sân” về nông thôn, 
đặc biệt ảnh hưởng sâu đến giới trẻ (có tới gần 40% những người sinh từ 
năm 1981 trở lại đây ở cả nông thôn và đô thị khi được hỏi đã coi Internet là 
sự lựa chọn yêu thích nhất). 
 Sức mạnh của mạng Internet và các tờ báo mạng điện tử còn thể hiện 
ở chỗ thông tin nhanh, dung lượng thông tin phong phú không bị “bó” trong 
thời lượng hạn chế của báo hình, phát thanh, hay trang báo giấy. Đó là chưa 
kể, sự lan tỏa và liên kết thông tin trên mạng internet khiến thông tin lan 
truyền với tốc độ chóng mặt và không bị ngăn cản bới bất cứ yếu tố gì. 
 3. Những vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền được thông tin 
của người dân thông qua báo chí 
 Để bảo đảm quyền được thông tin của người dân thông qua báo chí, 
hoạt động báo chí cũng cần được sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước, giảm 
bớt những rào cản không cần thiết. Qua khảo sát của chúng tôi, trong tác 
nghiệp, nắm bắt thông tin, hiện còn đang nổi lên một số khó khăn, hạn chế 
sau: 
 Một là, khó khăn về cơ chế người phát ngôn và cách vận dụng cơ chế 
này còn chưa thống nhất ở nhiều cơ quan đơn vị. Quy chế phát ngôn và 
cung cấp thông tin cho báo chí được Thủ tướng Chính phủ ban hành giữa 
năm 2007. Tuy nhiên, một số cơ quan chưa cử người phát ngôn hoặc có cử 
nhưng trong nhiều trường hợp người phát ngôn không kịp thời cập nhật 
thông tin hoặc không nắm rõ thông tin để cung cấp một cách cụ thể, chuẩn 
xác. Thực tế, khi Chính phủ quy định về người phát ngôn, có nghĩa là giúp 
báo chí có một nguồn tiếp cận chính thức, minh bạch, tránh những thông tin 
ngoài lề, đồn thổi, gây dư luận không tốt. Nếu thực hiện đúng tinh thần này, 
thì quyeefn tiếp cận thông tin của người dân thông qua báo chí sẽ thêm 
thuận lợi nhờ sự chính xác, chính thống, cũng như mức độ phong phú của 
thông tin. Tuy nhiên, không ít cơ quan công quyền, cơ chế người phát ngôn 
đã được vận dụng để “né tránh” báo chí vì “người phát ngôn” không chỉ 
phát ngôn mà còn bận rất nhiều việc chuyên môn khác nên tìm gặp không 
dễ. Các cá nhân có trách nhiệm khác thì vin vào cơ chế này để từ chối trả 
lời báo chí vì đó là “việc của người phát ngôn”. Cần phải hiểu và làm rõ 
người phát ngôn là đại diện chính thức của Bộ, ngành, cơ quan công quyền, 
có trách nhiệm nêu quan điểm chính thức của cơ quan, Bộ ngành đó với báo 
chí về những vấn đề có liên quan. Nếu người phát ngôn vì lý do gì đó 
không thể tiếp xúc được thì phải có người đại diện khác tạm thay thế để giữ 
mối liên hệ với báo chí thường xuyên. Nâng cao trách nhiệm, ý thức chính 
trị của cán bộ công quyền khi trả lời báo chí là cần thiết, song không nên 
tạo ra “cái cớ” để cán bộ công quyền chối bỏ trách nhiệm trả lời báo chí bởi 
bất cứ một xã hội văn minh nào, việc công chức, cán bộ đối diện với áp lực 
giám sát của DLXH vẫn luôn là điều cần thiết. 
 Hai là, khó khăn vì cơ chế “tài liệu đóng dấu mật” được sử dụng khá 
nhiều, khá tràn lan, cản trở việc tiếp cận thông tin và định hướng DLXH 
của nhà báo. Về vấn đề này, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn 
Truyền cũng đã phải thừa nhận, “còn có những cơ quan đóng dấu mật sai 
quy định”. Ông đưa ví dụ: “Ngay như công việc của thanh tra, luật quy định 
phải công khai kết luận thanh tra nhưng trong văn bản đó thường hay đóng 
dấu mật. Việc này phải uốn nắn trong quá trình điều hành, nhưng nhìn 
chung quy định diện mật của chúng ta hiện còn rộng. Theo ông, “chỉ những 
vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia mới gọi là mật, còn lại từ chủ 
trương, chính sách pháp luật hay những quy định thủ tục hành chính sẽ 
công khai minh bạch”. Ông khẳng định: “Báo chí có quyền phê bình sự 
thiếu thiện chí của một số cơ quan và phải làm sao để họ biết không muốn 
cũng phải làm bởi đây là trách nhiệm” (“Không thể chống tham nhũng nếu 
không có báo chí”, Báo Tuổi trẻ ngày 29/11/2008). 
 Nhiều chuyên gia cũng băn khoăn vì “tình trạng đóng dấu “mật” 
tràn lan trên tài liệu của các cơ quan để tránh bị báo chí khai thác, khiến 
phóng viên tác nghiệp gặp rất nhiều khó khăn” . Đấy là chưa kể việc nhà 
báo vi phạm luật báo chí thì bị xử lý, còn các cơ quan khác vi phạm thì 
chưa thấy xử lý. Sự mất công bằng này cũng là một trở ngại không nhỏ khi 
báo chí đang cố gắng vươn lên đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng. 
 Muốn báo chí làm tốt vai trò thông tin, bảo đảm quyền được thông 
tin của người dân thì điều đầu tiên, báo chí phải tạo được tác động, ảnh 
hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội. Chiến lược phát triển thông tin đến 
năm 2010 do Chính phủ đề ra đã nêu rất chi tiết, cụ thể những mục tiêu về 
mở rộng hệ thống các phương tiện thông tin, trong đó trọng tâm là các 
phương tiện báo chí như “về báo in, đến năm 2010: phấn đấu tăng sản 
lượng báo xuất bản hàng năm lên 900 triệu bản báo/năm; mức hưởng thụ 
bình quân lên 10 bản/người/năm; giảm tỷ lệ mất cân đối trong phát hành 
báo chí giữa khu vực thành phố, thị xã và vùng nông thôn, vùng miền núi, 
vùng sâu, vùng xa xuống mức 60%/40%”; “về phát thanh, truyền hình, 
“đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, 
truyền hình đến mỗi gia đình”; “nâng cao chất lượng chương trình truyền 
hình, bảo đảm tự sản xuất được 80% chương trình, khai thác các nguồn 
khác 20%”; “phát triển báo điện tử, trang tin điện tử trên Internet có chất 
lượng thông tin cao, hình thức sinh động, truy nhập nhanh để phục vụ tốt 
công chúng trong nước và ở nước ngoài. Phấn đấu đến năm 2010, tất cả các 
cơ quan báo chí Việt Nam đều thiết lập được Website riêng của mình”. 
 Như vậy, việc đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thông thông tin báo chí 
về số lượng đã được khẳng định trong chiến lược của Chính phủ. Đó là cơ 
sở quan trọng, là nền tảng để báo chí vươn lên làm tốt nhiệm vụ bảo đảm 
quyền được thông tin của người dân. Tuy vậy, bên cạnh việc tăng về 
“lượng” thì yêu cầu bức thiết vẫn là nâng cao về “chất”. Ngoài việc tăng số 
lượng phát hành báo in, tăng phạm vi phủ sóng và thời lượng phát thanh 
truyền hình, một yếu tố quan trọng và không thể thiếu chính là nâng cao 
chất lượng, tăng tính hấp dẫn của các loại hình báo chí với công chúng. 
Trong thời đại bùng nổ thông tin, công chúng có quyền lựa chọn những sản 
phẩm phù hợp với mình. Nếu báo chí thiếu sức cạnh tranh, không tạo được 
sự thu hút công chúng, thì dù số lượng bản in có tăng, thời lượng phát sóng 
có nhiều đến đâu thì hiệu quả tác động cũng rất thấp và không đạt mục tiêu 
đề ra. Mặt khác, tác động xã hội của báo chí là rất lớn, do đó, nếu người 
đưa tin không có sự cân nhắc, suy xét thấu đáo về hiệu quả, hệ quả của bài 
báo thì sức ảnh hưởng của nó đến đời sống xã hội có thể vượt xa tầm kiểm 
soát, tốn nhiều công phu sửa chữa, khắc phục hậu quả thông tin hơn. Điều 
đó đòi hỏi nỗ lực tự thân của đội ngũ báo chí cũng như cơ chế xử lý thông 
tin của các cơ quan báo chí, tránh những vấn đề phức tạp nảy sinh khiến 
quyền được thông tin của người dân bị hạn chế. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_bao_chi_trong_viec_bao_dam_va_phat_huy_quyen_duo.pdf