Ứng dụng công nghệ thông tin (Call) trong giảng dạy ngữ pháp và từ vựng tại trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
Các phương pháp truyền thống trong
giảng dạy ngữ pháp và từ vựng từ lâu vẫn
chiếm ưu thế trong nhiều lớp học ngoại
ngữ tại Việt Nam. Do đó, khóa học ứng
dụng Công nghệ thông tin (CALL) trong
đào tạo tiếng Anh đã được thực hiện để
kiểm chứng liệu phương pháp này có thể
mang lại những cải thiện tốt hơn về thành
tích và thái độ của người học hay không.
30 sinh viên năm thứ hai của một lớp chất
lượng cao tại Đại học Ngân hàng Thành
phố Hồ Chí Minh (BUH) đã tham gia vào
nghiên cứu này. Thông qua bảng câu hỏi
và phỏng vấn, các kết quả bước đầu cho
thấy cách tiếp cận CALL linh hoạt có thể
giúp thúc đẩy và nâng cao sự tự tin của
sinh viên trong học tập và sử dụng ngữ
pháp cũng như từ vựng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng công nghệ thông tin (Call) trong giảng dạy ngữ pháp và từ vựng tại trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng công nghệ thông tin (Call) trong giảng dạy ngữ pháp và từ vựng tại trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh
ẽ được phân tích riêng lẻ. Nhờ sử dụng Microsoft Excel mà dữ liệu thu được từ bản khảo sát được định lượng cụ thể giúp nhóm nghiên cứu xác định được thái độ tích cực và tiêu cực của sinh viên đối với phương pháp mới. Sau khi nắm bắt được các xu thế chung, nhóm nghiên cứu có thể trả lời được vấn đề thứ nhất là liệu sinh viên có hứng thú và tự tin với việc học ngữ pháp và từ vựng hay không. Trong khi đó, các cuộc phỏng vấn lại được phân tích riêng lẻ để có thể giải đáp được vấn đề thứ hai. Tất cả các bản ghi âm và lời thoại đã được đọc đi đọc lại đến khi nhóm nghiên cứu bảo đảm đã hiểu rõ vấn đề. Tiếp đó, nhóm nghiên cứu tiến hành phân tích dữ liệu để xác định vấn đề trọng tâm và thống nhất giữa những đối tượng nghiên cứu, thông qua đó có thể xác định được xem phương pháp mới có thể định hướng về cách học lại cho sinh viên được đến đâu. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Thái độ của sinh viên đối với CALL Phần này bao gồm những thông tin thu thập được liên quan đến thái độ của đối tượng nghiên cứu đối với CALL trong quá trình học từ vựng và ngữ pháp. Bảng 1 trình bày tổng quan những kết quả thu được từ khảo sát. Bảng 1: Tổng quan về thái độ của sinh viên BUH đối với CALL (n = 30) Trình bày và giải thích từ vựng Hữu ích Lôi cuốn Trung bình (TB) Chênh lệch Trung bình (TB) Chênh lệch 3,73 0,64 3,7 0,6 Minh họa ngữ pháp 3,6 0,67 3,27 0,58 Bài tập thực hành 3,83 0,38 3,76 0,44 Hoạt động và trò chơi 3,63 0,49 3,7 0,47 Điểm trung bình của 2 khía cạnh được khảo sát (tính hữu ích và tính lôi cuốn) nằm trong khoảng 3-4, chứng tỏ rằng, nhìn chung sinh viên nhận định những hoạt động trên là hữu ích và thú vị. Sinh viên có khuynh hướng đánh giá cao tính hữu ích và tính lôi cuốn của CALL khi được ứng dụng để trình bày và giải thích từ vựng (TBHữu ích= 3,73; TBLôicuốn= 3,7). Biểu đồ 2 thể hiện chi tiết những tiến bộ sinh viên đạt được khi áp dụng phương pháp này. 20 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Biểu đồ 2: Những lợi thế khi được trình bày và giải thích từ vựng theo CALL Biểu đồ 3: Mức độ thành thạo khi áp dụng những chủ điểm ngữ pháp trong suốt khóa học Có thể thấy rõ rằng, công nghệ mới đã giúp sinh viên hiểu từ mới cặn kẽ hơn (83,3%), nhớ từ mới lâu hơn (73,3%) và làm các bài kiểm tra trong khóa học nhanh chóng hơn (60%). Việc minh họa chủ điểm ngữ pháp theo CALL cũng được xem là hữu ích với điểm trung bình là 3,6. Ngoài ra, khảo sát cũng cho thấy, từ giai đoạn hai (sinh viên tải các bài tập từ địa chỉ mail chung của lớp để thực hành và ôn tập), sinh viên nhận xét bản thân đã có thể hiểu rõ hơn các chủ điểm ngữ pháp (Biểu đồ 3). Tuy nhiên, do tính đơn điệu và trùng lặp nên sinh viên không đánh giá cao tính lôi cuốn của những điểm ngữ pháp này (TB = 3,27). Giai đoạn ba (tài liệu in và bài tập thực hành nói) nhận được đánh giá cao nhất cả về tính hữu ích (TB = 3,83) và tính lôi cuốn (TB = 3,76). Nhiều sinh viên nhận xét rằng, việc tập luyện thường xuyên là cách tốt nhất để nâng cao từ vựng và ngữ pháp. Câu hỏi 17 trong bảng khảo sát thường nhận được phản hồi như sau: “Làm bài tập nhiều thì em càng tự tin hơn.” “Thực hành thường xuyên giúp em suy nghĩ nhanh và nhớ từ vựng cũng như ngữ pháp tốt hơn.” 21KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Có thể nhận thấy biên độ dao động so với điểm trung bình tương đối nhỏ (Chênh lệch hữu ích = 0,38, Chênh lệch lôi cuốn = 0,44), chứng tỏ sự thống nhất về quan điểm của sinh viên khi bàn về vấn đề này. Giai đoạn cuối (đánh giá về tính hữu ích và tính lôi cuốn của các hoạt động và trò chơi với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin) cũng nhận được phản hồi tích cực từ sinh viên (TB hữu ích = 3,63; TB lôi cuốn = 3,7). Khi được phỏng vấn, một số sinh viên khẳng định rằng, phương pháp này đem lại nhiều ích lợi: Làm việc theo nhóm tạo cảm giác thoải mái hơn cho em. Em tự do giao tiếp và cảm thấy tự tin hơn. (Sinh viên B/26/11/2015). Làm việc chung với nhau rất vui và chúng em có thể nghĩ ra nhiều ý tưởng hay hơn. Em có cơ hội thực hành những gì em đã học cùng với bạn bè. (Sinh viên E/26/11/2015). Câu 10 trong bảng khảo sát trình bày các thông tin về tính hiệu quả của phương pháp này theo bốn khía cạnh: sinh viên cảm thấy vui hơn trong một môi trường thoải mái (86,7%), hợp tác và tập trung hơn (83,3%), kiểm tra lỗi hiệu quả hơn (73,3%) và nhớ bài dễ hơn (92%). Một điểm cần lưu ý khác là sự hứng thú của sinh viên đối với khóa học. Theo Bảng 4, trước khóa học, điểm trung bình của sinh viên là 2,9 với mặt bằng chung là 3. Sau khóa học, điểm này tăng đáng kể lên 4,13 với mặt bằng chung là 4. Trong đó, đáng chú ý là có đến 23 sinh viên muốn tiếp tục học theo cách này trong khóa sau. Rõ ràng là phương pháp mới này đã tác động tích cực làm gia tăng sự hứng thú và động cơ của sinh viên đối với khóa học. Bảng 4: Đánh giá của sinh viên về mức độ lôi cuốn của khóa học (n = 30) Trung bình Điểm phổ biến Chênh lệch Mức độ hứng thú trước khóa học 2,9 3 0,48 Mức độ hứng thú sau khóa học 4,13 4 0,5 Bảng 5, liên quan đến mức độ hài lòng của sinh viên về sự tiến bộ của mình. Theo đó, sinh viên cảm thấy tự tin với những kiến thức đã được học nên đã đánh giá trung bình là hơn 3,5 và mặt bằng chung là 4. Quan trọng hơn là sinh viên cũng cảm thấy tiến bộ rõ rệt về khả năng sử dụng từ vựng và ngữ pháp (điểm trung bình là 3,87 và mặt bằng chung là 4). Câu 16 trong bảng khảo sát cho thấy, đến 82% sinh viên nhận định họ có thể làm bài thi cuối khóa tốt. Bảng 5: Mức độ hài lòng của sinh viên về sự tiến bộ của mình Trung bình Điểm phổ biến Chênh lệch Đánh giá của sinh viên về sự tự tin + sử dụng từ vựng 3,57 4 0,5 + sử dụng ngữ pháp 3,67 4 0,48 + tham gia tích cực 3,77 4 0,63 Mức độ hài lòng của sinh viên về sự tiến bộ của mình 3,87 4 0,57 4.2. Ảnh hưởng của CALL đối với thói quen học tập của sinh viên Ở phần này, chúng tôi trình bày kết quả sau những lần phỏng vấn sinh viên tập trung vào câu hỏi số 2. Đoạn trích sau đây, chủ yếu chú trọng vào cách sinh viên tiếp cận với phương pháp học ngữ pháp và từ vựng mới, sẽ cung cấp cái nhìn chi tiết hơn vào tầm ảnh hưởng của CALL. Đầu tiên, một số sinh viên nhấn mạnh về khả năng nhận biết ngữ cảnh tốt hơn khi học từ vựng và ngữ pháp. Em thường thực hành từ vựng qua nhiều trò chơi và em có thể nhớ từ tốt hơn. Nhờ dựa vào ý nghĩa của cả câu mà em có thể nhớ nghĩa của từ nhanh chóng. (Sinh viên A/28/11/2015). Ở các lớp trước, em thường phải dịch từ sang tiếng Việt rồi mới làm bài. Nhưng khi học lớp này, em làm nhiều bài tập và đôi khi không cần phải dịch nữa. Nếu gặp những câu tương tự, em biết mình nên trả lời như thế nào. (Sinh viên B/28/11/2015). 22 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Ngoài ra, sinh viên cũng chia sẻ rằng, những thay đổi trong cách dùng ngôn ngữ thứ nhất và thứ hai của mình là do cách dạy mới trong khóa học này. Em phải suy nghĩ thật nhanh để làm bài và thi đua cùng với các bạn khác. Em không có thời gian để dịch sang tiếng Việt. Em mừng vì mình đã suy nghĩ bằng tiếng Anh nhiều hơn. (Sinh viên D/28/07/2008) Tuy nhiên, một số sinh viên (7/10) thừa nhận rằng, học thuộc lòng vẫn là phương pháp chủ yếu để mình ôn lại bài cũ: Nếu bài thi chỉ hỏi những gì chúng em học trong lớp thì không có vấn đề gì. Nhưng lại có những thứ mà chúng em không học. Muốn có điểm cao thì em phải học hết từ vựng và ngữ pháp của cả hai lớp trước. (Sinh viên G/28/08/2007) Em nhớ kém lắm. Em học từ vựng nhiều lần nhưng lại rất dễ quên. Thầy thấy đó, em làm bài tập trong lớp rất chậmHằng ngày em phải học thuộc lòng để thi đậu. (Sinh viên H/28/08/2008) 5. THẢO LUẬN 5.1. Thái độ của sinh viên BUH đối với phương pháp CALL Nghiên cứu cho thấy, nhìn chung sinh viên có thái độ tích cực đối với phương pháp mới. Đặc biệt nhất là, phần lớn sinh viên đều hứng thú và tự tin hơn khi học từ vựng và ngữ pháp, chứng tỏ, phương pháp này được ưa chuộng hơn những phương pháp truyền thống. Có thể hiểu tình huống này theo hai hướng. Thứ nhất, CALL đã tạo ra một môi trường lấy người học làm trung tâm, sinh viên được tạo điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu đa dạng (gồm thực hành và làm việc nhóm) nên cảm thấy bài học lôi cuốn và tham gia nhiệt tình vào quá trình dạy-học hơn. Thứ hai, trong quá trình nghiên cứu, vai trò của giảng viên không phải là giảng dạy mà là hỗ trợ, trong khi sinh viên phải là những người học chủ động. Do đó, sinh viên cũng cảm thấy có động lực và hứng thú hơn. Một vấn đề nổi lên trong quá trình nghiên cứu là việc giảng dạy ngữ pháp rõ ràng cần phải được điều chỉnh vì người học cho rằng, cách học như thế gây nhàm chán. Một số sinh viên phản ánh rằng, mình luôn phải lắng nghe và giữ yên lặng khi giảng viên trình bày nên việc dạy và học diễn ra khá đơn điệu và chưa lôi cuốn được sinh viên. Một giải pháp được đề xuất là giao bài cho sinh viên tự tìm hiểu ở nhà, sau đó trình bày những gì mình hiểu trước lớp. Với vai trò là người đi khám phá những điểm mới mẻ của ngữ pháp tiếng Anh có sự hỗ trợ của giảng viên, sinh viên sẽ chủ động hơn và việc dạy và học ngữ pháp cũng trở nên thú vị và phù hợp hơn. 5.2. Ảnh hưởng của CALL đối với thói quen học tập của sinh viên BUH Như đã trình bày trong phần Kết quả, nhờ phương pháp mới, một số sinh viên đã thay đổi thói quen học tập của mình. Cụ thể, các bạn đã xem xét ngữ cảnh cũng như suy nghĩ bằng tiếng Anh nhiều hơn. Tuy nhiên, hơn 50% sinh viên được phỏng vấn vẫn cho rằng, ngữ pháp và từ vựng là một gánh nặng và học thuộc lòng vẫn là cách học phổ biến. Một cách giải thích khả dĩ là phương pháp này vì chỉ áp dụng trong sáu tuần nên chưa thể thấy thay đổi rõ rệt; việc học ngữ pháp và từ vựng vẫn đòi hỏi một sự tích lũy lâu dài. Ngoài ra, cũng có thể giảng viên đã quá đặt nặng kết quả thi cuối khóa khi đánh giá quá trình học ngữ pháp và từ vựng của sinh viên. Bản thân nhóm nghiên cứu cũng quá chú trọng vào các từ vựng có thể được kiểm tra và điểm thi đọc cuối khóa mà chưa chú ý đến những yếu tố khác như từ gợi ý và chiến lược đọc vì những phần này không có trong chương trình. Trong khi đó, sinh viên lại quá lo lắng cho kì thi cuối khóa nên cố gắng học càng nhiều càng tốt. Do đó, nếu muốn đạt hiệu quả lâu dài trong việc học ngoại ngữ, nhóm nghiên cứu cần phải dành nhiều thời gian cho sinh viên thực hành từ vựng và ngữ pháp kết hợp với việc dạy những chiến lược đọc hiệu quả giúp sinh viên tận dụng tốt nhất lợi thế của phương pháp này. 6. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Nhìn chung, nghiên cứu này đã cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về thái độ của sinh viên đối với phương pháp mới và hiệu quả của nó. Dù kết quả vẫn chưa thể hiện rõ nét sự thay đổi trong thói quen học tập của sinh viên, vẫn không thể phủ nhận hiệu quả tích cực của phương pháp này trong việc gia tăng sự hứng thú và tự tin của sinh viên. Kết quả này khá trùng khớp với những nghiên cứu khác về CALL (Kuh& Vesper, 1999; Skinner & Austin, 1999; Carey & Gregory, 2002). 23KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v Dựa trên những kết quả tìm thấy, nhóm nghiên cứu có đề xuất một số vấn đề cho những nghiên cứu trong tương lai. Có thể nói, giá trị của đề tài trên diện rộng còn nhiều hạn chế do nghiên cứu được thực hiện trên một phạm vi hẹp và trong một khoảng thời gian ngắn. Do đó, để hiểu biết kĩ hơn phương pháp CALL, cần phải tiến hành nghiên cứu xuyên suốt và trên diện rộng. Cũng có thể tiến hành nghiên cứu so sánh hai nhóm sinh viên được dạy và không được dạy theo phương pháp CALL. Ngoài ra, bản khảo sát và phỏng vấn cũng chưa thể đưa ra được con số chính xác về lượng từ vựng và khả năng sử dụng ngữ pháp của sinh viên. Do đó, cần có bài kiểm tra trước và sau khi ứng dụng CALL, sau đó so sánh kết quả của hai bài kiểm tra này để có thể đánh giá chính xác hiệu quả của phương pháp này. Cuối cùng, có thể tiến hành nghiên cứu tình huống có sử dụng CALL và các chiến lược đọc nhằm nâng cao kết quả thi cuối khóa của sinh viên. Nhóm nghiên cứu hi vọng sinh viên có thể ứng dụng một phương pháp linh hoạt hơn và có thể chủ động hơn trong quá trình học tiếng Anh của chính mình./. Tài liệu tham khảo: 1. Carey, J. O., & Gregory, V. L. (2002), Students’ Perceptions of Academic Motivation, Interactive Participation, and Selected Pedagogical and Structural Factors in Web-Based Distance Learning. Journal of Education for Library and Information Science, 43, 6-15. 2. Chen, P. (2004), EFL Student Learning Style Preferences and Attitudes Toward Technology- Integrated Instruction.Ph.D. Dissertation.University of South Dakota.DAI-A 64/08, 2813. 3. Frey, B.A.; Birnbaum, D.J. (2002), Learners’ Perceptions on the Value of PowerPoint in Lectures. Pittsburgh:University of Pittsburg. 4. Grant, L, K. (1998), Teaching Positive Reinforcement on the Internet.Teaching of Psychology. 5. Hui-Chun, L. (2003), Using Poetry to Develop Teenagers’ Speaking Competence at Han-Mei Language Institute in Taiwan. Edinburgh: University of Edinburgh. 6. Kramsch, C. (2001), Reading into Writing: Rhetorical Models of Understanding.English Teaching Forum 38.Retrieved July 9, 2008, from < state.gov/education/engteaching/rhmodels.html>. 7. Kuh, G. & Vesper, N. (1999), Do Computers Enhance or Detract from Student Learning? Paper presented at the annual meeting of the American Educational Research Association. Montreal, Canada. ERIC Document Reproduction Service No. ED429592. 8. Lloyd, R. (2005), Considerations in Survey Design, Data Analysis and Presentation: A Guide for ELT Practitioners. EA Journal 22(2), pp.36-60. 9. McEnery, T., Wilson, A. & Baker, J.P. (1997), Teaching Grammar Again After Twenty Years: Corpus-Based Help for Teaching Grammar.ReCALL Journal, 9(2), 8-17. 10. Nagata, N. (1996), Computer Vs. Workbook Instruction in Second Language Acquisition. CALICO Journal, 14 (1), 53-75. 11. Neumeier, P. (2005), A Closer Look at Blended Learning: Parameters for Designing a Blended Learning Environment for Language Teaching and Learning. ReCALL 17(2), 163-178. 12. Robson, C. (2002), Real World Research. 2nd Edition. Oxford: Blackwell Publishers. 13. Skinner, B., & Austin, R. (1999), Computer Conferencing: Does It Motive EFL students? ELT Journal, 53(4), 270-277. 14. Smith, S.M. &Woody, P.C. (2000), Interactive Effect of Multimedia Instruction and Learning Styles.Teaching of Psychology, 27 (3) (2000), pp.220–223 15. Thorne, K. (2003), Blended Learning: How to Integrate Online and Traditional Learning. Kogan Page: London. 16. Zhuo, F. (1999), The Relationships among Hypermedia-Based Instruction, Cognitive Styles and Teaching Subject-Verb Agreement to Adult ESL Learners (Adult Learners).Ph.D. Dissertation. West Virginia University. DAI-A 60/01, 106.
File đính kèm:
- ung_dung_cong_nghe_thong_tin_call_trong_giang_day_ngu_phap_v.pdf