Ứng dụng B-Learning trong công tác bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số
Thế kỷ XXI là kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức với sự tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp 4.0. Trong kỷ nguyên này, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT), đã và đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội, mà giáo dục không phải là một ngoại lệ. E-learning (Electronic Learning) là một trong những giải pháp ứng dụng CNTT-TT trong giáo dục rất phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, trong khi việc ứng dụng E-learning cho các hoạt động đào tạo diễn ra mạnh mẽ và phổ biến thì ở các hoạt động bồi dưỡng vẫn còn rất khiêm tốn, đặc biệt là đối với bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) người dân tộc thiểu số (DTTS). Bài viết này tập trung tìm hiểu về Blended learning (B-learning) - một hình thức học tập của E-learning và mạnh dạn đề xuất ứng dụng B-learning cho công tác bồi dưỡng CBCCVC người DTTS
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng B-Learning trong công tác bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số
ương trình (Program level); kết hợp ở mức độ thể chế (Institutional level)10. Cách phân chia này chủ yếu dựa trên nội dung học được kết hợp. Dựa vào đó, tôi xin đề xuất những kiểu kết hợp áp dụng cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS như sau: (i) Kết hợp về mặt phương pháp giữa các phương pháp dạy học khác nhau đối với từng nội dung học 9. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ 10. Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 114 Số 24 - Tháng 12 năm 2018 và chuyên đề cụ thể; (ii) Kết hợp trong một khâu hoặc trong các khâu của quá trình dạy học; (iii) Kết hợp về mặt nội dung (trong một hoạt động, trong một bài, trong một phần, chuyên đề hoặc các chuyên đề có liên quan mật thiết về nội dung với nhau). Hình 3. Các hình thức kết hợp cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS 3. Lợi ích khi áp dụng B-learning cho các chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ CBCCVC người DTTS, tuy nhiên, đội ngũ này vẫn còn mỏng cả về số lượng lẫn năng lực chuyên môn chưa ngang tầm nhiệm vụ11 và muốn tăng đội ngũ CBCCVC người DTTS cả về số lượng lẫn chất lượng, khâu đột phá đó chính là giáo dục - đào tạo12, mà trong đó bồi dưỡng là một thành phần không thể thiếu. Tuy nhiên, như đã phân tích tại phần đặc điểm của các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS ở trên, khi tổ chức các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ này theo cách tổ chức dạy học truyền thống trên thực tế thường có những khó khăn như sau: - Về khoảng cách địa lý: Các lớp bồi dưỡng, thông thường phải tổ chức ở trung tâm huyện lỵ hoặc tỉnh lỵ. Việc này sẽ làm tăng chi phí cho cán bộ tham gia lớp học. - Về thời gian: Các lớp bồi dưỡng theo phương thức tổ chức dạy học truyền thống bắt buộc học viên phải học đầy đủ chương trình bằng hình thức tập trung. Việc này dẫn đến việc cán bộ phải tạm gác công việc để tham gia các chương trình này. Trong 11. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ 12. can-bo-nguoi-dan-toc-thieu-so-tiep-theo-va-het.html khi đó, đội ngũ CBCCVC người DTTS phải bám địa bàn thì công tác quản lý mới đạt hiệu quả, rất khó sắp xếp thời gian để tham gia các chương trình bồi dưỡng mang tính tập trung cao như vậy được. - Về chuyên môn: Đối với các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS, việc giảng dạy và học tập đòi hỏi rất lớn đối với việc trải nghiệm thực tiễn; kỹ năng tự cập nhật kiến thức và các văn bản pháp luật; kỹ năng nhận xét, phân tích, đánh giá và so sánh các kinh nghiệm thực tiễn. Những chương trình có các chuyên đề liên quan đến các kỹ năng như giao tiếp, làm việc nhóm, thu thập và xử lý thông tin, quản lý thời gian người dạy cần phải dạy trực tiếp và cầm tay chỉ việc đối với đối tượng này. Mặt khác, so với người Kinh, năng lực đội ngũ CBCCVC người DTTS còn nhiều hạn chế, nhận thức hạn hẹp. Cộng thêm tâm lý tự ti, ngại đi học xa, ngại đi học dài hạn13, sẽ làm cho các lớp bồi dưỡng này đạt hiệu quả không cao. Đặc biệt đối với các lớp bồi dưỡng chung, thành phần lớp có cả cán bộ người Kinh lẫn người DTTS. Vì vậy, việc tổ chức dạy-học các chương trình bồi dưỡng cho đối tượng CBCCVC người DTTS sẽ phát huy hiệu quả tốt khi áp dụng B-learning với những lý do sau đây: - Giảm chi phí đi lại, giảm thời gian tập trung: Việc ứng dụng CNTT-TT sẽ giúp cho người học tiếp cận các kiến thức lý thuyết chủ động hơn, các tài liệu dưới dạng multimedia cũng sẽ sinh động hơn làm cho người học dễ tiếp thu. Việc này sẽ giúp cho việc tổ chức dạy - học được rút ngắn thời gian phải tập trung ở lớp học. Có thể áp dụng cách thức tổ chức dạy - học không đồng bộ để áp dụng đối với các chuyên đề mang tính lý thuyết cao. Giảng viên đưa bài giảng, các tài liệu tham khảo, các câu hỏi, bài tập liên quan đến chuyên đề lên hệ thống. Học viên tham gia vào hệ thống để học các chuyên đề, trả lời các câu hỏi và bài tập trên hệ thống, đặt các câu hỏi thắc mắc đến chuyên đề để giảng viên phản hồi. Buổi học F2F, giảng viên chỉ cần giải thích cụ thể hơn các thắc mắc của học viên và đưa thêm các kinh nghiệm thực tiễn. Điều này sẽ giúp người học chủ động thời gian của mình trong công việc, không tốn quá nhiều thời gian tập trung tại một địa điểm để học tập. - Đảm bảo chất lượng về mặt chuyên môn: Việc trao đổi kiến thức qua không gian mạng, không tiếp xúc trực tiếp có thể hạn chế được nhược điểm tâm lý tự ti, ngại giao tiếp, ngại thể hiện ý kiến trực tiếp của cán bộ người DTTS. Đối với các chuyên đề mang tính thực tiễn, các chuyên đề kỹ năng (cần hướng dẫn cầm tay chỉ việc), B-learning vẫn có hình thức tổ chức dạy học F2F như đã đề xuất ở 13. Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 115Số 24 - Tháng 12 năm 2018 trên. Việc này sẽ khắc phục được nhược điểm của E-learning đối với những chuyên đề này. - Đối với cơ sở giáo dục áp dụng B-learning cho đối tượng này: Có thể việc ứng dụng CNTT-TT vào thời gian đầu sẽ tốn rất nhiều kinh phí (đầu tư máy móc, phương tiện, đào tạo giảng viên, chi phí xây dựng hệ thống website ), nhưng chỉ cần đầu tư một lần và có thể sử dụng được nhiều cho các lớp về sau. Nếu tổ chức theo hình thức dạy-học truyền thống, mỗi lần tổ chức lớp tại các địa phương ở xa trụ sở chính, cơ sở giáo dục sẽ tốn một lần kinh phí khảo sát, thuê cơ sở vật chất với kinh phí mỗi lần không hề nhỏ. Mặt khác, kinh phí đi lại, ăn ở cho giảng viên giảng dạy mà cơ sở giáo dục phải bỏ ra sẽ ít hơn rất nhiều. Việc này có thể giúp cơ sở giáo dục hạ kinh phí các lớp bồi dưỡng theo hình thức xã hội hóa, giảm áp lực cho ngân sách nhà nước. 4. Khó khăn khi áp dụng B-learning cho các chương trình bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức người DTTS và giải pháp khắc phục Khi áp dụng B-learning cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS trong thực tiễn, chúng ta sẽ gặp phải một số khó khăn nhất định như sau: (i) Xây dựng nguồn tài nguyên bài giảng: Để soạn bài giảng E-learning có chất lượng đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức của giảng viên. Trong khi đó, hiện nay chưa có chế độ hỗ trợ cho giảng viên khi soạn giảng các bài giảng E-learning dành cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS. Mặt khác, như đã phân tích ở phần E-learning, có nhiều giảng viên có năng lực tốt về chuyên môn và sư phạm nhưng năng lực ứng dụng CNTT-TT còn hạn chế nên không thể phát huy hết được năng lực đội ngũ này. (ii) Về phía người học: Như đã nêu ở các phần trên, cán bộ người DTTS vẫn còn bị ảnh hưởng của cách học thụ động truyền thống, thái độ học tập chưa cao, tâm lý tự ti, ngại đi học xa. Mặt khác, đối với đội ngũ này, kỹ năng ứng dụng CNTT-TT còn rất yếu, đặc biệt là các học viên người DTTS ở các vùng núi, vùng xâu vùng xa. (iii) Về cơ sở vật chất: Đòi hỏi phải có hạ tầng CNTT đủ mạnh, có đường truyền cáp quang, xây dựng Website trường học và Website E-Learning hoàn chỉnh chi phí cao, nếu không tận dụng hết khả năng của Web sẽ gây lãng phí. Đối với những lớp bồi dưỡng đặt tại địa phương, đặc biệt là địa phương ở vùng xâu vùng xa như đã đề cập ở trên, việc học viên tiếp cận với Internet và máy tính còn gặp nhiều khó khăn, cũng sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình dạy-học qua môi trường Internet. (iv) Về nhân lực phục vụ E–learning: Cần có cán bộ chuyên trách phục vụ sự hoạt động của hệ thống E-Learning. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các trường có tổ chức bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức không có cơ chế, chính sách đãi ngộ cho các cán bộ chuyên trách này. Với những khó khăn nêu trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp khắc phục như sau: Thứ nhất, các trường đại học, học viện (gọi tắt là các trường) cần xác định E-learning là một chiến lược trong giáo dục mới hướng tới xã hội học tập. Trong đó, đối với các trường được giao nhiệm vụ bồi dưỡng đội ngũ CBCCVC người DTTS, cần xem B-learning là một giải pháp hiệu quả khi áp dụng cho các chương trình bồi dưỡng nhằm nâng cao chấp lượng đội ngũ này. Thứ hai, tăng cường tập huấn về phương pháp, kĩ năng, sử dụng tổng hợp nhiều hợp phần để tạo bài giảng E-Learning cho các giảng viên tham gia chương trình bồi dưỡng có ứng dụng B-learning. Thứ ba, các trường phải đầu tư trang thiết bị, hỗ trợ kinh phí cho giảng viên trong việc tạo bài giảng. Chi phí ban đầu có thể lớn đối với các trường, tuy nhiên những trang thiết bị này sẽ được sử dụng nhiều lần và tính chi phí so với tổng chi phí để khảo sát và thuê cơ sở vật chất của các lớp bồi dưỡng sẽ tiết kiệm hơn nhiều. Thứ tư, các trường cần trực tuyến hóa trường học bao gồm trực tuyến hóa về quản lí, điều hành, tác nghiệp và trực tuyến hóa về dạy học. Website trường học phải trở thành địa chỉ thân thiện với cán bộ, giảng viên, học viên. Hướng dẫn phương pháp tự học, học tập và trao đổi qua mạng cho người học. Đây là kĩ năng cần thiết để học tập các chương trình bồi dưỡng có áp dụng B-learning. Thứ năm, vai trò của giảng viên là rất quan trọng trong việc triển khai B-Learning. Vì vậy, giảng viên không chỉ nắm bắt được phương pháp học tập mà còn là người tạo ra bài giảng phục vụ cho giảng dạy, các bài giảng E-Learning phục vụ cho tự học của người học. Phải có hình thức đào tạo đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu dạy học hiện đại nhất: như có khả năng ứng dụng CNTT vào dạy học, có khả năng sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, và quan trọng hơn cả là năng lực tự học, tự nghiên cứu khoa học. Vì đó là nền tảng quan trọng để người giảng viên không bị tụt hậu so với thời đại. Thứ sáu, áp dụng B-learning có lộ trình đối với các lớp bồi dưỡng CBCCVC người DTTS đặt tại địa phương xa trụ sở chính của cơ sở giáo dục. Trước tiên, chỉ nên ứng dụng với các lớp đặt tại các trung tâm tỉnh lỵ như thành phố, thị xã hoặc tại các trung tâm huyện lỵ có điều kiện phát triển kinh tế-xã hội tốt. Áp dụng cho các lớp bồi dưỡng cán bộ cấp cao trước (bồi dưỡng nhóm đối tượng 1 và 2 theo quyết định số 771/QĐ-TTg ngày 26/6/2018 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 116 Số 24 - Tháng 12 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án “Bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với CBCCVC giai đoạn 2018-2025”), thực hiện và điều chỉnh nhiều lần để tích lũy kinh nghiệm tổ chức rồi mới áp dụng đối với các lớp bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, bậc, vị trí việc làm khác (như chuyên viên chính, chuyên viên, bồi dưỡng cấp phòng, bồi dưỡng cấp xã, bồi dưỡng nhóm đối tượng 3 và 4 theo quyết định 771/QĐ-TTg nói trên). Thứ bảy, trước khi thực hiện thí điểm, các trường phải ban hành các quy định bằng văn bản đối với tất cả các hoạt động liên quan đến việc dạy-học trên môi trường Internet. Sau khi thực hiện thí điểm, các trường phải tổng kết, rà soát các quy định để điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Hằng năm, các trường phải thực hiện công việc này nhằm đảm bảo quyền lợi của người dạy và người học. Ngoài ra, các trường phải giao cho các Khoa chuyên môn, hàng năm đều phải có rà soát, đánh giá các bài giảng E-learning của các giảng viên để có điều chỉnh cho phù hợp thực tiễn cũng như phù hợp với các quy định trong việc tổ chức các chương trình bồi dưỡng nếu có thay đổi. 5. Kết luận E-learning là xu hướng tất yếu trong giai đoạn hiện nay, nhờ công nghệ này mọi người có ở bất kỳ nơi đâu, thời điểm nào đều có thể tham gia những khóa học tốt nhất được hướng dẫn bởi những giảng viên giỏi. Tuy nhiên, việc tổ chức hình thức dạy học truyền thống vẫn có những lợi thế nhất định đối với các lớp bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức. Chính vì vậy, đối với các lớp bồi dưỡng này, việc tận dụng tất cả các ưu điểm của dạy học truyền thống (F2F) và dạy học qua mạng bằng cách áp dụng hình thức B-learning sẽ đem lại hiệu quả tối ưu cho chất lượng bồi dưỡng nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC người DTTS, từ đó nâng cao chất lượng nền công vụ nói chung. Tuy vậy, khi ứng dụng CNTT-TT cho các chương trình bồi dưỡng CBCCVC người DTTS, các trường cần phải vạch ra cho đơn vị mình một lộ trình ứng dụng cụ thể, đồng thời ban hành các văn bản quy định liên quan đến các hoạt động này chứ không nên vội vàng triển khai đại trà, điều này có thể làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các khóa bồi dưỡng. Tài liệu tham khảo Cao Đức Hạnh, (2007), Tổng quan đào tạo trực tuyến với E-learning, Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng Hải - Đại học Hàng Hải, số 10 (6/2007). Nguyễn Văn Hiền, (2008), Tổ chức “Học tập hỗn hợp” biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng CNTT cho sinh viên trong dạy học sinh học, Tạp chí Giáo dục, số 192, trang 34; 43; 44. Lê Huy Hoàng, Lê Xuân Quang, (2011), E-learning và ứng dụng trong dạy học, Đại học Sư phạm Hà Nội. Trần Huy Hoàng, Nguyễn Kim Đào, (2014), Tổ chức hoạt động dạy học theo B-learning đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo sau 2015, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học - Đại học Văn Hiến, số 5 (11/2014). Nguyễn Danh Nam, (2007), Các mức độ ứng dụng E - learning ở trường ĐHSP, Tạp chí Giáo dục, số 175, trang 41; 42; 43. Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing. William Horton, (2011), E-learning by Design (Second Edition), San Francisco: Pfeiffer. Victoria L. Tinio (Nhóm công tác e-ASEAN UNDP-APDIP dịch), (2003), “Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong giáo dục”, 30/09/2005. UNESCO, (2010), ICT Transforming Education - A Regional Guide. https://masie.com. https://vi.wikipedia.org/wiki/ Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_ tr%E1%BB%B1c_tuy%E1%BA%BFn. News/125/0/1010070/0/40357/Xay_dung_ doi_ngu_can_bo_cong_chuc_nguoi_dan_ toc_thieu_so_Giai_phap_quan_trong_bao_ dam_quyen_binh_dang (Trương Minh Dục, Trương Phúc Nguyên (2018), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số - Giải pháp quan trọng bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ). item/33180602-xay-dung-doi-ngu-can-bo- nguoi-dan-toc-thieu-so-tiep-theo-va-het. html (Lê Mậu Lâm và các cộng sự).
File đính kèm:
- ung_dung_b_learning_trong_cong_tac_boi_duong_can_bo_cong_chu.pdf