Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh

Tóm tắt: Thực tập sư phạm là một cấu phần quan trọng trong chương trình đào tạo cử nhân sư phạm

ngoại ngữ, giúp người giáo viên tương lai có thể học tập và phát triển năng lực sư phạm từ môi trường thực tế. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích chương trình đào tạo cử nhân sư phạm ngoại ngữ của 9 cơ sở giáo dục đào tạo tại Việt Nam, từ đó đưa ra các đề xuất cải tiến chương trình thực tập sư phạm ngoại ngữ nói chung và thực tập sư phạm tiếng Anh nói riêng của Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHNN - ĐHQGHN).

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 1

Trang 1

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 2

Trang 2

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 3

Trang 3

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 4

Trang 4

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 5

Trang 5

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 6

Trang 6

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 7

Trang 7

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 8

Trang 8

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 9

Trang 9

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 3380
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh

Đề xuất cải tiến thực tập sư phạm ngoại ngữ nhìn từ góc độ chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm tiếng Anh
ch độc lập tại cơ sở tiếp 
nhận. Quy định này còn linh hoạt cả về thời 
gian thực tập, người học không nhất thiết phải 
chờ đến học kỳ cuối cùng mà ngay sau khi kết 
thúc năm thứ 3, tức là người học đã tích lũy 
được những học phần cơ bản nhất trong khối 
kiến thức ngành, là có thể tự liên hệ để triển 
khai học phần thực tập của mình. Người học 
vẫn phải đảm bảo thực hiện các nội dung theo 
đúng quy định trong Quy chế thực tập, lập kế 
hoạch, viết nhật ký và báo cáo thực tập đầy 
đủ. Nhà trường cử giảng viên hướng dẫn để tư 
vấn, hỗ trợ sinh viên khi cần thiết.
3.3. Đánh giá sơ bộ
Trên cơ sở những phân tích trên đây, có 
thể nhận thấy, học phần thực tập và việc triển 
khai học phần này có một số điểm chưa hợp 
lý, cụ thể là: 
123Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
Học phần thực tập chiếm tỉ lệ tín chỉ thấp
Tổng số tín chỉ toàn khóa học là 136, trong 
đó chỉ có 3 tín chỉ cho học phần thực tập, 
chiếm tỉ lệ 2,2%. Tỉ lệ này là rất thấp. Tuy một 
số hoạt động về tập giảng có thể được giảng 
viên đan xen trong các học phần như Phương 
pháp giảng dạy tiếng Anh, Thiết kế giáo án 
và phát triển tài liệu, nhưng nhìn chung, với 
số tín chỉ thực tập thấp như vậy, rất khó triển 
khai các hoạt động mang tính đồng bộ xuyên 
suốt trong toàn khóa học để giúp người học 
hình thành và phát triển năng lực thực hành 
sư phạm.
Thời gian thực tập chưa hợp lý
Như phân tích phía trên, học phần thực 
tập sư phạm trong chương trình hiện hành chỉ 
tập trung vào năm cuối, khi sinh viên đã hoàn 
thành các học phần cốt lõi trong khối kiến thức 
ngành sư phạm ngoại ngữ. Tổng thời gian thực 
tập là 6 tuần, tương đương 30 ngày làm việc. 
Sinh viên tự liên hệ thực tập có thể tiến hành 
thực tập vào học kỳ 1 năm thứ tư. Sinh viên 
thực tập theo đoàn sẽ được bố trí thực tập đầu 
học kỳ 2 năm thứ tư. Trong thời gian này, sinh 
viên phải cùng lúc thực hiện nhiều nhiệm vụ 
như làm quen với môi trường dạy học và các 
hoạt động của trường phổ thông, học về công 
tác chủ nhiệm, dự giờ, thực hiện các nhiệm vụ 
hỗ trợ giáo viên trên lớp học, tham gia tổ chức 
các hoạt động cho học sinh, soạn giáo án, thực 
hành giảng dạy trên lớp, viết nhật ký thực tập, 
viết báo cáo thực tập... 
Như vậy, có thể thấy các nội dung yêu cầu 
về thực tập khá đa dạng, đòi hỏi người giáo 
sinh phải có những kỹ năng xử lý công việc 
tốt mới có thể cùng lúc làm quen, học hỏi và 
hoàn thành các nội dung thực tập trên. Việc bố 
trí toàn bộ nội dung thực tập trong một đợt vào 
năm cuối là chưa thực sự hợp lý.
Nội dung chương trình thực tập chưa 
đồng bộ và xuyên suốt
Thực tập là quá trình người học làm quen, 
học hỏi, thực hành các hoạt động nghề nghiệp 
trước khi chính thức tham gia công việc. Việc 
thực tập được triển khai với sự tham gia của 
3 bên là người học, giảng viên hướng dẫn tại 
trường đại học và giáo viên hướng dẫn tại cơ 
sở tiếp nhận thực tập. Các hoạt động phát triển 
năng lực nghề nghiệp, năng lực giảng dạy cho 
sinh viên cần được tổ chức đồng bộ và nên bắt 
đầu từ những năm đầu tiên. Do đó, cần xây 
dựng một chương trình xuyên suốt và đồng 
bộ từ năm thứ nhất để giúp người học hình 
thành và phát triển năng lực giảng dạy. Những 
nội dung của chương trình này gồm có định 
hướng nghề nghiệp từ năm thứ nhất, tổ chức 
cho sinh viên được quan sát thực tế, sau đó là 
kiến tập, và cuối cùng mới là thực tập. Như 
vậy, người học sẽ có một quá trình tích lũy 
lâu dài, hình thành những hiểu biết thực tiễn 
về môi trường giáo dục phổ thông. Điều này 
sẽ giúp họ hòa nhập và bắt nhịp với công việc 
nhanh hơn, thuận lợi hơn, đồng thời đáp ứng 
tốt hơn yêu cầu của công việc.
4. Đề xuất cải tiến về thực tập sư phạm tại 
ĐHNN - ĐHQGHN
4.1. Bổ sung học phần Kiến tập
Bên cạnh học phần thực tập với 3 tín chỉ 
như hiện nay, để tăng thời lượng thực hành 
thực tập cho người học, tạo cơ hội cho người 
học làm quen với môi trường phổ thông ngay 
từ những năm đầu tiên, chương trình đào tạo 
cử nhân Sư phạm tiếng Anh cần bổ sung thêm 
ít nhất một học phần Kiến tập 3 tín chỉ. Học 
phần Kiến tập có mục tiêu giúp người học làm 
quen với môi trường dạy học và các hoạt động 
của trường phổ thông, nắm bắt các hoạt động 
liên quan đến công tác giảng dạy tiếng Anh 
của người giáo viên, có khả năng vận dụng 
những kiến thức đã học để bước đầu phân tích, 
đánh giá các hoạt động dạy học. Với mục tiêu 
như vậy, các hoạt động chính của học phần 
Kiến tập gồm:
- Hướng dẫn của giảng viên đại học trước 
khi sinh viên tham gia kiến tập tại trường phổ 
thông. Nội dung hướng dẫn tập trung vào việc 
giới thiệu về cơ sở tiếp nhận kiến tập, mục 
tiêu và nội dung chương trình kiến tập, các 
yêu cầu năng lực sinh viên cần đạt cũng như 
124 H.L.K. Anh / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
các loại báo cáo cần nộp sau khi kết thúc thời 
gian kiến tập.
- Kiến tập tại trường phổ thông: Gồm các 
hoạt động như quan sát, dự giờ môn tiếng 
Anh, tham gia tổ chức các hoạt động ngoại 
khóa cho học sinh, làm quen và hỗ trợ công 
tác giáo viên chủ nhiệm. Sinh viên cần lập kế 
hoạch kiến tập, viết nhật ký kiến tập, ghi chép 
để tổng hợp thành báo cáo kiến tập. 
- Đánh giá kết quả kiến tập: Giảng viên 
phụ trách học phần Kiến tập sẽ chấm và nhận 
xét các báo cáo Kiến tập, tổ chức 2-3 buổi 
đánh giá kết quả của đợt kiến tập để sinh viên 
có những trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh 
nghiệm trong thời gian đi kiến tập.
Với những nội dung nêu trên, học phần 
Kiến tập gồm 3 tín chỉ có thể tổ chức với thời 
lượng được phân bổ gồm 1 buổi hướng dẫn 
3-4 giờ + thời gian kiến tập tại trường phổ 
thông từ 2-3 tuần + đánh giá kết quả kiến tập 
2-3 buổi khoảng 6-8 giờ.
4.2. Bổ sung một số học phần hỗ trợ định 
hướng nghề nghiệp
Bên cạnh các học phần Kiến tập, Thực 
tập, những nhà thiết kế chương trình nên bổ 
sung một số học phần để định hướng đạo đức 
nghề nghiệp, giới thiệu chuẩn năng lực giáo 
viên ngoại ngữ, hỗ trợ người học hình thành 
năng lực tự học, năng lực phát triển bản thân 
và phát triển chuyên môn. Ngoài ra, cũng có 
thể thiết kế các học phần giới thiệu về hoạt 
động của trường phổ thông (tìm hiểu điều lệ 
trường phổ thông, các văn bản quy định liên 
quan, hệ thống giáo dục phổ thông, chương 
trình giảng dạy, công tác chủ nhiệm, công tác 
Đoàn-Hội, nhiệm vụ của giáo viên...), hoặc 
hoạt động của các trường đại học cao đẳng 
và nhiệm vụ của giảng viên đại học, chuẩn 
năng lực giảng viên (vì có những sinh viên 
tốt nghiệp sẽ giảng dạy tại các trường đại học, 
cao đẳng), hoặc học phần về phát triển kỹ 
năng giao tiếp sư phạm (giao tiếp với đồng 
nghiệp, với học sinh, phụ huynh, kỹ năng xử 
lý các tình huống sư phạm...).
Những học phần này sẽ giúp người học 
hình thành và phát triển các năng lực ‘vệ tinh’, 
hỗ trợ cho việc phát triển năng lực nghề nghiệp 
tổng thể, giúp người học sẵn sàng tham gia 
công tác giảng dạy ngay sau khi tốt nghiệp.
Trong trường hợp do giới hạn của tổng số 
tín chỉ toàn chương trình đào tạo không cho 
phép thiết kế nhiều học phần, những nội dung 
này có thể được tổ chức theo hình thức chuyên 
đề đan xen trong quá trình đào tạo.
4.3. Xây dựng chương trình xuyên suốt và 
đồng bộ
Để phát triển nhóm năng lực chuyên 
ngành sư phạm cho người học, những người 
xây dựng chương trình đào tạo cần thiết kế các 
học phần đảm bảo tính đồng bộ và xuyên suốt. 
Tính đồng bộ thể hiện ở chỗ mỗi học phần đưa 
vào chương trình đào tạo sẽ đóng góp một vai 
trò nhất định để giúp người học hình thành 
và phát triển một năng lực được mô tả trong 
chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo. Từ đó, 
các học phần thuộc nhóm phát triển năng lực 
chuyên ngành sư phạm sẽ đảm bảo người học 
đạt được những năng lực cần thiết về nghiệp 
vụ sư phạm. Tính xuyên suốt thể hiện ở việc 
các học phần trong nhóm này sẽ được tổ chức 
đào tạo trải đều trong cả khóa học, giúp người 
học định hình về nghề nghiệp, làm quen môi 
trường phổ thông ngay từ năm đầu tiên, có sự 
tiếp xúc và cọ xát thường xuyên với công tác 
giảng dạy tại trường phổ thông, chuẩn bị tốt 
cho bước thực tập giảng dạy vào năm cuối. 
Việc thiết kế không chỉ dừng lại ở khâu lựa 
chọn đưa học phần nào vào trong chương 
trình đào tạo, mà còn phải tính đến mục tiêu, 
nội dung và các hoạt động giáo dục kèm theo.
Có thể gợi ý một số học phần và hoạt động 
như sau:
- Định hướng nghề nghiệp: sau khi sinh 
viên nhập học;
- Học các học phần như đạo đức nghề giáo 
viên, các hoạt động của trường phổ thông, kỹ 
năng giao tiếp sư phạm;
- Tham quan và tìm hiểu về trường phổ 
thông: trong học kỳ đầu tiên và học kỳ thứ hai;
- Kiến tập: Trong học kỳ thứ ba hoặc học 
kỳ thứ tư;
125Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
- Hỗ trợ hoạt động tại trường phổ thông: 
Tất cả các học kỳ;
- Thực tập: học kỳ 7 hoặc học kỳ 8.
4.4. Thiết lập mối quan hệ hợp tác bền vững 
với các cơ sở tiếp nhận thực tập 
Hiện nay, một yêu cầu thực tế đang được 
đặt ra đối với các cơ sở giáo dục đào tạo là 
vấn đề tăng cường kết nối với nhà tuyển dụng. 
Mục đích của việc kết nối này là để tìm hiểu, 
nắm bắt nhu cầu của nhà tuyển dụng về kế 
hoạch tuyển dụng ngắn hạn, trung hạn và dài 
hạn, về các yêu cầu của nhà tuyển dụng đối 
với năng lực của ứng viên, sự tham gia của 
nhà tuyển dụng vào quá trình đào tạo v..v. Là 
một ngành mang tính chất đặc thù, đào tạo cử 
nhân sư phạm nói chung và đào tạo cử nhân 
sư phạm ngoại ngữ hiện nay chịu sự chi phối 
của các chính sách và chiến lược giáo dục vĩ 
mô của Chính phủ và chiến lược phát triển của 
từng địa phương. Chính vì vậy, bên cạnh việc 
thực hiện các nhiệm vụ đào tạo phù hợp với 
chiến lược giáo dục vĩ mô, cũng rất cần có sự 
kết nối thường xuyên giữa cơ sở đào tạo với 
chính quyền và sở giáo dục - đào tạo các địa 
phương cũng như các trường phổ thông. Sự 
kết nối nên mang tính tương tác hai chiều: một 
mặt giúp các cơ sở đào tạo nắm bắt nhu cầu 
nguồn nhân lực của địa phương, vùng miền và 
cả nước, một mặt các trường đại học cũng cần 
thể hiện vai trò tư vấn định hướng phát triển 
ngành nghề cho các địa phương. 
Việc tạo sự kết nối thường xuyên và bền 
vững giữa các cơ sở giáo dục đào tạo sư phạm 
nói chung và sư phạm ngoại ngữ nói riêng với 
các trường phổ thông hoặc các trường đại học, 
cao đẳng tại địa phương có nhu cầu tiếp nhận 
sinh viên thực tập là điều cần thiết. Các cơ sở 
tiếp nhận thực tập sẽ là điểm đến thường xuyên 
cho các hoạt động tham quan, kiến tập, thực tập 
của sinh viên ngành sư phạm ngoại ngữ trong cả 
khóa học. Sinh viên ngành sư phạm ngoại ngữ 
sẽ được nhúng trong môi trường giáo dục thực 
tiễn, cọ xát các hoạt động giáo dục, từ đó phát 
triển các năng lực sư phạm, sẵn sàng tham gia 
công tác giảng dạy ngay sau khi tốt nghiệp. Bên 
cạnh đó, sinh viên thực tập cũng hỗ trợ cho công 
tác giảng dạy và các hoạt động ở trường phổ 
thông. Việc kết nối giữa cơ sở đào tạo sư phạm 
ngoại ngữ với đơn vị tiếp nhận thực tập có thể 
thể hiện thông qua việc ký kết văn bản hợp tác. 
Trong đó cơ sở giáo dục đào tạo cam kết hỗ trợ 
cơ sở tiếp nhận thực tập trong việc cử các giảng 
viên, chuyên gia phối hợp tổ chức tọa đàm, hội 
thảo tập huấn phát triển chuyên môn cho giáo 
viên ngoại ngữ của cơ sở tiếp nhận thực tập, 
cam kết giới thiệu những sinh viên ưu tú khi cơ 
sở tiếp nhận thực tập cần tuyển dụng giáo viên. 
Cơ sở tiếp nhận thực tập cam kết tiếp nhận thực 
tập sinh thường xuyên, định kỳ, tạo điều kiện 
để thực tập sinh và giảng viên hướng dẫn triển 
khai các hoạt động theo chương trình thực tập đã 
quy định. Ngoài ra, trường đại học cũng có thể 
mời giáo viên phổ thông tham gia giảng dạy một 
số nội dung về thực tế hoạt động tại trường phổ 
thông, kỹ năng ứng xử sư phạm
5. Kết luận
Thực tập sư phạm là một cấu phần quan 
trọng trong chương trình đào tạo cử nhân sư 
phạm ngoại ngữ, giúp người giáo viên tương 
lai có thể học tập và phát triển năng lực sư 
phạm từ môi trường thực tế. Trên cơ sở phân 
tích chương trình đào tạo cử nhân Sư phạm 
tiếng Anh của ĐHNN - ĐHQGHN và một 
số trường đại học khác, bài viết đi sâu đánh 
giá mức độ phù hợp của nội dung thực tập 
sư phạm đồng thời đưa ra những đề xuất cải 
tiến cho các hoạt động thực tập nói riêng, hoạt 
động nâng cao năng lực sư phạm nói chung 
cho sinh viên chương trình đào tạo cử nhân 
Sư phạm tiếng Anh tại ĐHNN - ĐHQGHN. 
Hy vọng những đề xuất này sẽ được các cán 
bộ liên quan, đặc biệt là người thiết kế chương 
trình đào tạo, cân nhắc để cải tiến chương trình 
và nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo.
Tài liệu tham khảo
Phạm Thị Kim Anh (2015). Chương trình đào tạo giáo 
viên ở Việt Nam - một số bất cập và định hướng phát 
triển. Hội thảo khoa học quốc tế Phát triển chương 
trình đào tạo giáo viên - Cơ hội và thách thức, Đại 
học Sư phạm Thái Nguyên.
126 H.L.K. Anh / Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 35, Số 2 (2019) 116-126
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Khung năng lực ngoại 
ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (ban hành theo Thông 
tư 01/2014-TT-BGDĐT ngày 24/1/2014). 
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Hướng dẫn thực hiện 
Yêu cầu cơ bản về năng lực giáo viên tiếng Anh 
phổ thông (công văn số 729/BGDĐT-NGCBQLGD 
ngày 25/2/2014). 
Đề án Ngoại ngữ Quốc gia 2020, Bộ Giáo dục và Đào 
tạo (2014). Khung năng lực giáo viên tiếng Anh 
của Việt Nam (Competency Framework for English 
Language Teachers: ETCF).
Nguyễn Thị Thu Hằng, Đỗ Thị Phương Thúy, Nguyễn 
Thị Phương Hoa (2009). Về thực tập sư phạm 
của sinh viên hệ sư phạm Trường Đại học Ngoại 
ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tạp chí Khoa học 
ĐHQGHN: Ngoại ngữ, 25(1), 51-56. 
Đinh Xuân Khoa, Thái Văn Thành, Nguyễn Ngọc Hiền 
(2018). Phát triển chương trình và mô hình đào tạo 
giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tạp chí 
Khoa học Giáo dục Việt Nam, 1.
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà 
Nội (2015). Khung chương trình đào tạo ngành 
Sư phạm tiếng Anh (ban hành theo Quyết định số 
4062/QĐ-ĐHNN ngày 29/11/2012 và Quyết định 
số 3065/QĐ-ĐHQGHN ngày 30/9/2015 của Giám 
đốc Đại học Quốc gia Hà Nội).
IMPROVING TEACHING PRACTICUM: SUGGESTIONS 
FROM THE ANALYSIS OF FOREIGN LANGUAGE 
TEACHER EDUCATION CURRICULA
Ha Le Kim Anh
Academic Affair Department, VNU University of Languages and International Studies, 
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
 Abstract: Teaching practicum is an important component of a foreign language teacher 
education program, which helps future teachers to learn and develop pedagogical competence in a 
real-life context. Within the scope of this article, we focus on analyzing the foreign language teacher 
education curricula of 9 universities in Vietnam, and offer our recommendations for improving 
foreign language teacher education in general and English teaching practicum in particular at the 
University of Languages and International Studies, Vietnam National University, Hanoi.
Keywords: curriculum, foreign language teacher education, practicum

File đính kèm:

  • pdfde_xuat_cai_tien_thuc_tap_su_pham_ngoai_ngu_nhin_tu_goc_do_c.pdf