Tư tưởng, tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật
Tóm tắt
Bài viết tập trung đi sâu đưa ra những nhận thức bước đầu về tư tưởng, tầm nhìn
chiến lược và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật (KH-KT).
Người đã sớm thấy được trình độ thấp kém của KH-KT ở Việt Nam và sự phát triển
mạnh mẽ của KH-KT trên thế giới; thấy rõ vai trò của sự phát triển của KH-KT
trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở nước ta; đưa ra các giải
pháp cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của KH-KT ở nước ta.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng, tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng, tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật
thanh niên học sinh thời cách mạng tháng Tám ấy đã thấm nhuần lời dạy của Ngƣời, nhiều ngƣời đã trở thành những nhà KH-KT tài năng, vững vàng, lành nghề, có những đóng góp xứng đáng cho cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cho công cuộc xây dựng nƣớc nhà. 497| Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin Bƣớc vào thời kỳ xây dựng CNXH ở nƣớc ta, Ngƣời ngày càng thấy rõ vai trò to lớn của sự phát triển của KH-KT. Theo Ngƣời, vai trò to lớn của sự phát triển của KH-KT thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: Một là, thấm nhuần quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Ngƣời quan niệm, KH-KT là động lực của lịch sử, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất vật chất và xã hội. Ngƣời viết: “Từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cày bừa, búa đá phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa” [9; tr.600]. Theo Ngƣời, sự phát triển không ngừng của sản xuất vật chất, của xã hội tất yếu sẽ đƣa loài ngƣời quá độ lên CNXH. Ngƣời khẳng định: “Không lực lượng nào ngăn trở được mặt trời mọc. Không lực lượng nào ngăn trở được xã hội loài tiến lên. Không lực lượng nào ngăn trở được CNXH, chủ nghĩa cộng sản phát triển” [9; tr.158]. Ngƣời cho rằng, “chúng ta chỉ có thể xây dựng thành công CNXH trên cơ sở một nền KH-KT tiên tiến” và: “Muốn tiến lên CNXH thì phải có khoa học ...” [9; tr.401]. Hai là, KH-KT tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, đến văn hóa, xã hội. Theo Ngƣời, KH-KT là cơ sở để Đảng và Nhà nƣớc định ra chủ trƣơng, đƣờng lối và chính sách, pháp luật, Ngƣời nói: “Phải xây dựng tác phong điều tra, nghiên cứu trong mọi công tác cũng như trong khi định ra mọi chính sách của Đảng và của Nhà nước” [11; tr.71]. KH-KT tác động đến kinh tế, văn hóa, xã hội; góp phần quyết định trong việc nâng cao năng suất lao động, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân: “Khoa học phải đi từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân...”. [12; tr.97]. Ba là, KH-KT làm cho nƣớc ta có nền kinh tế “công nghiệp và nông nghiệp hiện đại”; “cải biến bộ mặt xã hội”, “lề lối sản xuất”, “phong tục tập quán lạc hậu” của xã hội; làm cho “văn hóa và khoa học tiên tiến”; “đời sống của nhân dân ta văn minh, khoa học, lành mạnh và vui tươi”. Ngƣời nói: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng tôi là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến” [10; tr.412]. Ngƣời đòi hỏi những nhà khoa học: “các đồng chí phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và KH-KT, phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi” [12; tr.97- 98]. |498 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) Bốn là, sự phát triển KH-KT là then chốt của “công nghiệp hóa”; con đƣờng duy nhất đƣa “nước ta vĩnh viễn thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu”, “xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật” cho CNXH. Ngƣời nói: “Đi đường, ai cũng muốn mau tới đích. Chúng ta làm cách mạng, cũng muốn mau tới thắng lợi cuối cùng. Con đường của chúng ta ngày nay ở miền Bắc là: qua thời kỳ quá độ tiến lên CNXH; từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên thành một nước công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có KH-KT tiên tiến. Chỉ có đi theo con đường ấy, miền Bắc nước ta mới vĩnh viễn thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu và xây dựng cơ sở vững chắc cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc” [10; tr.501]. Năm là, KH-KT là nhân tố quan trọng “bảo đảm CNXH thắng lợi"; làm cho “nước giàu, dân mạnh”. Ngƣời viết: "Chúng ta đều biết rằng trình độ KH-KT của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Nǎng suất lao động còn thấp kém... Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó... Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao nǎng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho CNXH thắng lợi" [12; tr.96-97]. Có ra sức đem hiểu biết KH-KT của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động “nước mới giàu, dân mới mạnh và đời sống của nhân dân mới được cải thiện về mọi mặt” [12; tr.97]. Tóm lại, theo KH-KT có vai trò quan trọng cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nƣớc. Theo Ngƣời, KH-KT là động lực phát triển của lịch sử xã hội; là nhân tố then chốt của sự nghiệp “công nghiệp hoá”; là con đƣờng duy nhất đƣa “nước ta vĩnh viễn thoát khỏi cảnh nghèo đói lạc hậu”, “xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật” “bảo đảm CNXH thắng lợi"; “nước giàu, dân mạnh”. 2.3. Hồ Chí Minh đưa ra các giải pháp cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật ở nước ta Nhận thức đƣợc sâu sắc, đúng đắn thực trạng của đất nƣớc; vai trò của KH-KT trong đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nƣớc, Ngƣời đã đƣa ra các giải pháp cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của KH-KT ở nƣớc ta: 2.3.1. Phát triển giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực khoa học, trọng dụng nhân tài, trí thức để thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật Nhận thức tầm quan trọng đặc biệt của sự phát triển của KH-KT đối với sự phát triển đất nƣớc, Ngƣời nhấn mạnh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [5; tr.7]. Theo Ngƣời, không phát triển giáo dục, không thể nắm bắt, theo kịp sự phát triển nhanh chóng của KH-KT. Ngƣời nói: "Muốn cải tiến kỹ thuật, phải biết kỹ thuật. Muốn cải 499| Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin tiến tổ chức lao động cũng phải biết phương pháp tổ chức và có kinh nghiệm tổ chức. Về mặt này và mặt kia, hiện nay chúng ta đều còn kém. Cho nên phải "học, học nữa, học mãi" như Lênin đã dạy" [10; tr.527]. "Máy móc ngày càng tinh xảo, nếu không có trình độ vǎn hóa và kỹ thuật thì không thể điều khiển được. Trước đây làm việc theo lối thủ công, nhưng bây giờ làm bằng máy móc tinh xảo cả, nên việc học tập vǎn hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật là rất cần thiết" [10; tr.495]. Với tầm nhìn của một lãnh tụ lỗi lạc, một nhà văn hóa kiệt xuất, Ngƣời luôn luôn coi trọng trí thức, đánh giá cao sức mạnh của tri thức. Ngƣời nói: "Cách mạng rất cần Tri thức và chỉ có cách mạng mới biết trọng Trí thức" [7; tr.53] và "Trí thức không có bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi" [7; tr.56). Vì vậy, theo Ngƣời, một mặt, phải coi trọng việc “đào tạo trí thức mới. Cải cách trí thức cũ... Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa” [7; tr.56-57]. Mặt khác, Ngƣời rất chăm lo đến việc tìm kiếm, phát hiện, sử dụng các bậc hiền tài và phát triển nhân tài. Ngƣời viết: “Kiến thiết phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào, chắc không thiếu người có tài, có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc hiền tài không thể xuất hiện. Khuyết điểm đó tôi xin nhận” [5; tr.504]. Ngƣời chỉ thị cho các địa phƣơng trong cả nƣớc “phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước, lợi dân thì phải báo cáo ngay cho chính phủ biết” [5; tr.504]. Ngƣời kêu gọi các nhân tài hãy “hăng hái giúp ích nước nhà” và căn dặn các cấp chính quyền: “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo léo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều” [5; tr.114]; “cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung” [11; tr.69]. 2.3.2. Thực hành dân chủ rộng rãi, tạo điều kiện mọi ngành, mọi người thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật Hồ Chí Minh đã chỉ ra tầm quan trọng của vấn đề dân chủ trong việc thực hiện cải tiến KH-KT. Ngƣời nói: "Muốn làm tốt các việc này phải thực hiện dân chủ" [10; tr.460]. Đấy là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát huy nǎng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ KH-KT. Dân chủ ở đây trƣớc hết là đảm bảo cho tất cả mọi ngƣời đều đƣợc tham gia hoạt động KH-KT, học tập, nghiên cứu, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Theo Ngƣời thì vấn đề là phải phát huy sức mạnh của tất cả mọi ngƣời, mƣời ngƣời không làm đƣợc thì một trǎm ngƣời góp ý kiến lại nhất định sẽ làm đƣợc. Dân chủ trong hoạt động KH-KT còn là bảo đảm tính khách quan, công bằng, công khai trong mọi sinh hoạt khoa học, trong đánh giá các sản phẩm KH-KT, trong kiểm tra, giám sát |500 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) việc thực hiện các quy chế hoạt động KH-KT. Ngƣời nhấn mạnh “phải đem khoa học, kỹ thuật truyền bá sâu rộng trong nhân dân”. Khẳng định vai trò, nhiệm vụ và ý nghĩa to lớn của công tác nghiên cứu KH-KT, đồng thời, Ngƣời nhắc nhở tạo điều kiện mọi ngành, mọi ngƣời thúc đẩy sự phát triển của KH-KT. Ngƣời nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của KH-KT là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác KH-KT để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng CNXH thắng lợi”; cán bộ KH- KT phải đi sâu đi sát cơ sở “phải đem khoa học, kỹ thuật truyền bá sâu rộng trong nhân dân”; quần chúng nhân dân “phải bền bỉ, cố gắng học tập KH-KT”; phát huy “vai trò của các tổ chức quần chúng như thanh niên, phụ nữ, công đoàn...” trong tuyên truyền, phổ biến KH-KT [12; tr.97-99]. Ngƣời nhắc nhở các công trình, đề tài nghiên cứu phải có hiệu quả thiết thực: “Những điều đem phổ biến phải thiết thực, phải chính xác, phải làm sao cho quần chúng có thể hiểu được và làm được” [12; tr.97]. 2.3.3. Hồ Chí Minh phải mở rộng ngoại giao, tăng cường hợp tác quốc tế để thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, mở cửa kinh tế, mở rộng ngoại giao, tăng cƣờng hợp tác quốc tế để thúc đẩy sự phát triển của KH-KT vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện quan trọng để phát triển đất nƣớc. Ngƣời sớm chủ trƣơng “hoan nghênh những người Pháp đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác”, “mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia” [5; tr.86]. Ngƣời khuyến khích các đối tác nƣớc ngoài hợp tác trên những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu (Ví dụ: lĩnh vực KH-KT), chƣa có điều kiện khai thác (mở rộng ngoại giao, hợp tác quốc tế về khoa học - kỹ thuật), góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam. Nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam, năm 1945, Ngƣời đã gửi thƣ cho Bộ trƣởng Ngoại giao Mỹ, đề nghị “gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với với ý định, một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác” [5; tr.91]. Trong lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Ngƣời nêu rõ: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc” [5; tr.523]. 501| Phần IV. Nghiên cứu, dạy học và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ nghĩa Mác - Lênin Xuất phát từ nhận thức về tình hình, đặc điểm của nƣớc ta sau khi miền Bắc đƣợc giải phóng, đất nƣớc hai miền thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc cách mạng khác nhau, để phát triển KH-KT, Hồ Chí Minh và Đảng ta chỉ ra rằng, phải: “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phổ biến KH-KT một cách có trọng điểm, có từng bƣớc vững chắc, nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ dân sinh, phục vụ quốc phòng. Ra sức đào tạo cán bộ khoa học và xây dựng các cơ sở nghiên cứu khoa học cần thiết, kết hợp với việc phổ biến rộng rãi những hiểu biết KH-KT trong đông đảo quần chúng, thúc đẩy phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật, sáng chế phát minh. Mở rộng sự hợp tác với các nƣớc anh em trong việc nghiên cứu KH-KT” [12; tr.96]. III. KẾT LUẬN Bài viết tập trung đƣa ra những nhận thức bƣớc đầu về tƣ tƣởng, tầm nhìn chiến lƣợc và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về KH-KT: Sớm thấy đƣợc trình độ thấp kém của KH-KT ở Việt Nam và sự phát triển mạnh mẽ của KH-KT trên thế giới; thấy rõ vai trò to lớn của sự phát triển của KH-KT trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc; đƣa ra các giải pháp cơ bản, nền tảng, sáng suốt để thúc đẩy sự phát triển của KH-KT ở nƣớc ta. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển khoa học, kỹ thuật đến nay vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng, những nhận thức bƣớc đầu đó sẽ góp phần làm sáng rõ tƣ tƣởng, tầm nhìn chiến lƣợc và sáng tạo; giá trị lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về KH-KT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 2. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. |502 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Dẫn theo: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng tại Đại hội X, báo Nhân dân, số 18563, ngày 7/4/2006. 14. Tƣ liệu của Bảo tàng cách mạng Việt Nam. 15. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.77-78. 16. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.131. 17. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.8. 18. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.50, tr.103. 19. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.33, tr.36. 20. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.8. (*) Bài viết mang tính chất giới thiệu, đã đƣợc đăng ở Tạp chí Dạy và học ngày nay; Mã số ISSN: 1859-2694, Kì 1, Số tháng 7/2019. 503|
File đính kèm:
- tu_tuong_tam_nhin_chien_luoc_va_sang_tao_cua_chu_tich_ho_chi.pdf