Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh được hình thành do sự tác động của điều

kiện gia đình, xã hội và phẩm chất cá nhân. Tư tưởng đó có nhiều nét đặc sắc. Tư tưởng của

Nguyễn Công Trứ về nhân sinh thể hiện chủ yếu ở tư tưởng về các giai tầng xã hội và kẻ sĩ, về “chí

nam nhi” và “hưởng lạc”, về sự dung hợp giữa Nho, Phật, Lão. Tư tưởng của ông, tuy mang lập

trường Nho giáo phong kiến, nhưng thể hiện khát vọng về tri thức, đạo đức, ý chí dấn thân cống

hiến cho nước, cho dân. Nguyễn Công Trứ là một mẫu mực của kẻ sĩ từ trong tư tưởng đến trong

hành động, luôn khát vọng sáng tạo vì lợi ích của đất nước, nhân dân.

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 1

Trang 1

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 2

Trang 2

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 3

Trang 3

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 4

Trang 4

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 5

Trang 5

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 6

Trang 6

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 7

Trang 7

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 8

Trang 8

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 9

Trang 9

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 4960
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh

Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh
. Ông viết: “Vũ 
trụ chức phận nội/Đấng trượng phu một túi 
kinh luân/Thượng vị đức hạ vị dân/Sắp hai 
chữ quân thần mà gánh vác”. Đỉnh cao 
thiêng liêng của chức phận kẻ sĩ là “quân 
thần”. Ông viết: “Nặng nề thay đôi chữ 
quân thần/Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ”. 
Chỉ có kẻ sĩ với khí chất chân chính mới có 
thể giúp quân vương thực hiện thành công 
“đức trị, xã hội lý tưởng. “Đạo quân thần” 
cho ông sức mạnh đồng thời là cái chỉ đạo 
mọi hoạt động của ông, không cho phép 
ông lựa chọn, lùi lại hay rẽ ngang trước mọi 
vấn đề. Xa rời vấn đề có tính nguyên tắc 
này sẽ không thể cắt nghĩa được đầy đủ tư 
duy và hành động của ông. Vì sao Nguyễn 
Công Trứ lại là người hăng hái “cầm cờ 
tướng quân” đi đàn áp các cuộc khởi nghĩa 
của nhân dân? Mấy thế hệ đã qua đều cho 
Nguyễn Bình Yên 
71 
rằng đó là một hạn chế của ông, phê phán 
ông. Đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể thì 
động cơ và hành động của ông là phù hợp 
với yêu cầu chính trị, giai cấp, “đạo quân 
thần” đã chỉ ra. Ông hết lòng vì nước vì dân 
theo lập trường giai cấp của mình, vì “đạo” 
mà ông cầm quân dẹp “loạn đảng”. Dẹp 
xong “loạn Phan Bá Vành”, ông đưa tàn 
quân “loạn đảng” trở thành người khai 
hoang, lấn biển, rồi trao đất đó cho họ, tạo 
điều kiện cho họ làm ăn. Yêu nước, yêu dân 
của ông là ở chỗ đó. Ông cũng từng nếm 
chịu những bất công nhưng “cương 
thường” và chí “kinh bang tế thế” đã níu 
giữ ông, không để ông bất mãn, “nổi loạn” 
như Cao Bá Quát; đồng thời thúc đẩy ông 
tích cực sửa chữa xã hội bằng những giải 
pháp mới. Ông chưa có những điều kiện 
cần thiết để nhận thức cái mới của thế giới 
để có thể “tự mình canh tân mình” và đề 
xuất tư tưởng “canh tân” phát triển đất nước 
và cứu nước như Nguyễn Trường Tộ, Phạm 
Phú Thứ, Đặng Huy Trứ. 
Nguyễn Công Trứ quan niệm rằng giữ 
“đạo cương thường” đòi hỏi phải đặt trung, 
hiếu lên hàng đầu bởi đó là hai giá trị căn 
bản nhất; công danh sự nghiệp là lẽ sống, là 
thước đo thành công của người quân tử. 
Ông viết: “Có trung hiếu nên đứng trong 
trời đất/ Không công danh thời nát với cỏ 
cây”. Lý tưởng của ông không mới, vẫn 
nằm trong giới hạn của lý luận và lập 
trường Nho giáo phong kiến, nhưng lại gặp 
thời vận nên vẫn có thể phát huy vai trò của 
nó. Bởi lẽ, nhà Nguyễn giành được giang 
sơn bằng vũ lực với sự trợ giúp từ bên 
ngoài, nên không thể nhận được sự đồng 
thuận cao từ xã hội; thiết lập trật tự xã hội, 
sự trung thành của tứ dân là yêu cầu cấp 
thiết. Nho giáo đáp ứng được yêu cầu đó, 
cho nên làm cho Nho giáo trở lại vị trí độc 
tôn là một trong những vấn đề sống còn về 
mặt ý thức hệ của triều Nguyễn. Nhà 
Nguyễn đã thành công trong việc khôi 
phục, phát triển nền giáo dục nho học, 
thông qua khoa cử nho học để tuyển dụng 
quan lại. Mục tiêu và giải pháp gắn chặt với 
nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Qua 
thời Lê mạt, “cương thường” tưởng như đã 
là thứ lý luận không còn khả năng dẫn dắt, 
nay lại bùng cháy rực rỡ dưới triều Nguyễn, 
ít nhất dưới thời trị vì của các vị vua Gia 
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. 
Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ không nằm 
ngoài trào lưu ấy. 
Theo Nguyễn Công Trứ, muốn hoàn 
thành chức phận của mình kẻ sĩ phải nuôi 
“chí nam nhi”, trả “nợ tang bồng”, “nợ 
công danh”. Kẻ sĩ là người “tri mệnh thức 
thời duy tuấn kiệt”, “đấng trượng phu một 
túi kinh luân”. Kẻ sĩ phải học đạo và hành 
đạo. Quan niệm “hành đạo” thể hiện tập 
trung trong các bài thơ: Chí khí anh hùng, 
Nợ công danh, Nợ tang bồng, Gánh trung 
hiếu Nội dung cơ bản ở đó là lập thân, 
lập nghiệp bằng “hành đạo”, giúp đời, thực 
hiện bổn phận với nước, với dân. Nói cách 
khác, đó là trả món “nợ công danh”, “nợ 
tang bồng”, “nợ nam nhi”. Những món nợ 
ấy là bổn phận, trả được những món nợ đó 
thì “có danh”. Bổn phận của kẻ sĩ là cái 
được quy định sẵn bởi vũ trụ, “chí nam nhi” 
phải nhận lấy và gánh vác. Nói vũ trụ quy 
định bổn phận làm trai chỉ là một cách diễn 
đạt về vai trò, ý nghĩa cuộc sống của con 
người (nam nhi), cách nói này nhuốm màu 
duy tâm huyền bí. Song, quan niệm của ông 
có yếu tố tích cực rõ ràng, chứa đầy chí khí 
của con người có lý tưởng và khát vọng 
cống hiến, hay ít nhất là được thỏa chí làm 
trai. Ông viết: “Chí làm trai Nam, Bắc, 
Đông, Tây/Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
72 
bể”, “Chí những toan xẻ núi lấp sông/Làm 
nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”. Cả cuộc 
đời, ông luôn đem hết sức lực, trí tuệ và đạo 
đức của mình để thực hiện và thực hiện 
thành công khát vọng vì nước, vì dân. 
“Chí nam nhi” song hành với “hưởng 
lạc” là một nét đặc sắc trong quan niệm 
nhân sinh của Nguyễn Công Trứ. Nuôi “chí 
nam nhi”, trả “nợ công danh” đòi hỏi kẻ sĩ 
phải dấn thân, đương đầu và giải quyết 
những nhiệm vụ gian khổ, thậm chí hy sinh 
tính mạng của mình để có thể vẹn toàn 
trung, hiếu. Để dấn thân thành công, kẻ sĩ 
phải “tu thân”, “khắc kỉ phục lễ”, “trọng 
nghĩa khinh lợi”, không thay đổi lẽ sống 
trước nghèo khó, tiền bạc, quyền uy; hành 
vi phải đoan chính, nói năng đúng mực, “ăn 
tùy nơi, chơi tùy chốn” sao cho xứng đáng 
với phẩm giá của mình. Người ham hưởng 
lạc, muốn thanh nhàn là người không có 
“chí nam nhi”, chẳng thể vẫy vùng bốn 
phương, tạo lập công danh, đứng trong trời 
đất. “Chí nam nhi” và tư tưởng “hưởng lạc” 
tồn tại như những cái đối lập không thể 
dung hòa. Có thể nói, Nguyễn Công Trứ rất 
thành công trong việc xử lý cái “mâu thuẫn 
chết người” ấy. Ông vừa đề cao “chí nam 
nhi”, đã rất thành công trong dấn thân trả 
“nợ nam nhi”, lại vừa coi trọng “hưởng 
lạc”, “hưởng nhàn”, và đã tận hưởng thú 
vui ấy trong suốt mấy chục năm mỗi khi có 
thể. Dường như “hưởng lạc” không hại 
được “chí nam nhi” của ông và ông càng 
thực hiện được “chí nam nhi” bao nhiêu thì 
“hưởng lạc” của ông lại càng đạt đến trình 
độ cao bấy nhiêu, trở thành “triết lý hưởng 
lạc” riêng có của ông. 
Ban đầu, quan niệm “hưởng nhàn”, 
“hưởng lạc” hay “hành lạc” của ông chưa 
khác biệt với quan niệm của các thế hệ kẻ sĩ 
đi trước. Đó là lối sống tao nhã, lấy cái 
thanh tịnh nơi làng quê, “thâm sơn cùng 
cốc” làm bối cảnh, với “bầu rượu túi thơ”, 
“vịnh hoa thưởng nguyệt” để thể hiện sự 
viên mãn, thanh bạch của mình. “Hưởng 
lạc” cũng là một phần tất yếu của cuộc 
sống, nhưng nằm vào giai đoạn thứ ba của 
cuộc đời kẻ sỹ, sau khi đã hoàn thành việc 
trả “nợ nam nhi”. Về khuynh hướng tư 
tưởng, “hưởng nhàn” gần với quan niệm 
tiêu dao, phóng niệm của Đạo gia. Nhưng 
dần dần, ở Nguyễn Công Trứ đã hình thành 
triết lí “hành lạc” có nội dung khác hẳn, bao 
gồm từ những thú vui tao nhã đến những 
thú vui trần tục nhất, là một bộ phận tất yếu 
của cuộc sống con người. Ông viết: “Nhân 
sinh bất hành lạc/Thiên tuế diệc vi thương”; 
“Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy/Nếu 
không chơi thiệt ấy ai bù”, “Cuộc hành lạc 
vẫy vùng cho phỉ chí”. Và “hành lạc” có nội 
dung, hình thức phong phú, là vẻ đẹp của 
cuộc sống. Ông viết: “Đường ăn chơi mỗi 
vẻ mỗi hay”, “Có yến yến hường hường 
mới thú/ Khi đắc ý mắt đi mày lại”. Triết lí 
“hành lạc” của ông trong là một tuyên ngôn 
về hưởng thụ những thú vui trong đời, mà 
cho đến ngày nay vẫn ít có người sánh 
được, làm được như ông. 
Chính vì những tuyên ngôn như thế mà 
không ít người, xưa và nay, cho rằng hành 
lạc của Nguyễn Công Trứ là sự suy đồi, 
biểu hiện lối sống thiếu lý tưởng cao đẹp, 
không lối thoát của con người trong chế độ 
phong kiến đã đến giai đoạn khủng hoảng. 
Theo khuôn mẫu chung thì nhận xét đó có 
sự hợp lý nhất định, nhưng sự suy đồi, 
khuynh hướng “hưởng lạc” của người đời 
thời nào chẳng có, sự khác biệt có chăng 
chỉ là ở mức độ và cách biểu hiện mà thôi. 
Đối với Nguyễn Công Trứ, có lẽ “hành lạc” 
không phải là một sự “suy đồi” như vậy, 
giống về hành vi nhưng không cùng bản 
chất. “Hành lạc” ở ông không đơn thuần là 
thực hiện hành vi nhằm thỏa mãn tính dục; 
Nguyễn Bình Yên 
73 
thái độ của ông không giống với thái độ, lối 
hành xử của những kẻ chơi bời lỗ mãng, ăn 
bám, phá phách hay hành vi của những vua 
quan sa đọa, chỉ biết “hưởng lạc” mà quên 
cả trách nhiệm của mình. “Hành lạc” trong 
ông là một cuộc chơi hay, đúng hơn là một 
phương thức sống của kẻ sĩ bên cạnh “chí 
nam nhi”, bổ sung cho “chí nam nhi”. Ông 
viết: “Chơi cho lịch mới là chơi/ Chơi cho 
đài các cho người biết tay/Tài tình dễ mấy 
xưa nay”. Đó là cái “chơi” của giới thượng 
lưu được xã hội đương thời thừa nhận như 
một giá trị. Ví dụ, 73 tuổi ông còn cưới 
nàng hầu trẻ thì ngày nay người ta cho 
rằng đó là hôn nhân không dựa trên tình 
yêu, là coi thường phụ nữ. Nhưng đó lại là 
giá trị được xã hội đa thê thừa nhận. 
“Hưởng lạc” của ông còn là sự thụ hưởng 
các giá trị nghệ thuật, của văn hóa, văn 
nghệ mà hát ả đào, hát ca trù là một đại 
diện điển hình ông đắm say. Những đóng 
góp của ông vào hình thức nghệ thuật, văn 
hóa phi vật thể này cũng là một nét “hưởng 
lạc” của ông. Nếu xét theo góc độ của chủ 
nghĩa cá nhân phương Tây thì tư tưởng 
“hưởng lạc” của ông đi sau một bước, 
nhưng so với Việt Nam, nó đã đi trước thời 
đại hàng trăm năm. 
Công khai triết lý hưởng lạc cũng là một 
nét độc đáo trong quan niệm nhân sinh của 
ông, song cũng vì thế mà trong triều đình 
cũng như ngoài xã hội đều có bộ phận xét 
nét, dị nghị ông. Người đồng tình, mến 
mộ, muốn được như ông cũng nhiều. Kẻ 
phản đối, ghen ghét, lên án, muốn xa lánh 
và hạ bệ ông cũng lắm. Có người coi lối 
sinh hoạt phong lưu tình cảm, “hưởng 
lạc”của ông là biểu hiện của sự “đổ đốn”, 
suy đồi đạo đức của người quân tử, là biểu 
hiện của sự khủng hoảng, suy tàn của chế 
độ phong kiến. 
Triết lý nhân sinh Nho giáo dù có những 
giá trị nhân văn sâu sắc đến mấy cũng 
không tránh khỏi những hạn chế của chế độ 
mà nó phản ánh. Triết lý “hưởng lạc” của 
ông vừa có những nét tiến bộ đi trước thời 
đại hàng trăm năm khi nó đề cao tự do cá 
nhân, vừa chứa đựng những hạn chế sâu sắc 
bởi tính chất phụ quyền, “trọng nam khinh 
nữ”, coi người phụ nữ vốn “mắt đi mày lại” 
với ông chỉ là một thứ đồ chơi trong cái “nợ 
tang bồng” mà thôi. Những xét nét, dị nghị 
của xã hội từ khi ông còn “chức cao vọng 
trọng” đến khi ông nghỉ hưu không phải là 
không có căn cứ. 
Trong tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về 
nhân sinh có sự dung hợp tư tưởng Nho, 
Phật, Lão với mức độ đậm nhạt khác nhau 
trong từng giai đoạn của cuộc đời ông. Khát 
vọng dấn thân cống hiến, lập công danh 
theo đạo quân thần Nho giáo là động lực 
thúc đẩy ông thời trai trẻ và khi làm quan. 
Giai đoạn cuối đời, lý tưởng ấy đã suy giảm 
nghiêm trọng. Trong Bài ca ngất ngưởng, 
bản tổng kết cuộc đời, ông chỉ ra rằng, chốn 
quan trường chỉ là cái “lồng” chật hẹp, hạn 
chế “chí nam nhi”, khiến ông không thể 
thỏa chí vẫy vùng để trả “nợ tang bồng” 
như ông từng mong ước. Cuối đời ông đến 
với tư tưởng Lão và Phật như một lẽ tự 
nhiên. Ông không phải là người đầu tiên 
hay người cuối cùng trong giới nho sĩ đến 
với Lão và Phật. Song, Lão và Phật chỉ bổ 
sung cho Nguyễn Công Trứ những gì mà 
Nho giáo chưa đáp ứng được. Các giáo lý 
ấy không đủ sức mạnh kéo ông ra khỏi đạo 
Nho để đi vào một con đường khác giống 
như một số trường hợp đã xảy ra. Chính vì 
vậy, khi tự do tự tại “hưởng lạc”, “hưởng 
nhàn”, triết lý “hưởng lạc” của ông mang 
màu sắc của cả Lão và Phật. Có ý kiến cho 
rằng cuối đời ông có phần thiên về Phật, 
bởi thơ ông có rất nhiều ý, lời mang đậm 
màu sắc Phật giáo, còn màu sắc Lão giáo có 
phần ít hơn. Nhưng cửa Phật dường như 
cũng trở nên chật hẹp hoặc quá buồn tẻ đối 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
74 
với ông. Vì thế mà khi lên chùa lễ Phật, ông 
còn mang theo cả kép hát, ả đào; làm khuấy 
động cả không gian vốn yên tĩnh của nhà 
chùa. Có thể nói chí khí của ông quá lớn, 
“tam giáo” quá chật hẹp, đời lại quá phức 
tạp và mênh mông, nên cuối đời Nguyễn 
Công Trứ dường như đi vào bế tắc để rồi 
phải thốt lên rằng: “Ngồi buồn mà trách 
ông xanh/ Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại 
cười/Kiếp sau xin chớ làm người/Làm cây 
thông đứng giữa trời mà reo”. Song, hình 
như cái tính “ngất ngưởng” vẫn đi cùng 
ông, khi ông nhắn nhủ người đời như một 
lời thách thức rằng: “Giữa trời vách đá cheo 
leo/Ai mà chịu rét thời trèo với thông”! Cái 
đặc sắc đến trái nghịch trong tư tưởng của 
ông phần lớn từ đó mà ra. 
4. Kết luận 
Cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ 
được tạo nên bởi những chuỗi sự kiện và 
những tư tưởng, tuy vẫn thuộc phạm trù 
Nho giáo phong kiến, nhưng chứa đựng 
những giá trị tích cực, nhân văn sâu sắc. 
Nguyễn Công Trứ là một mẫu mực của “kẻ 
sĩ” từ trong tư tưởng đến trong hành động. 
Ông là tấm gương của thực hiện “cương 
thường”, luôn kiên định lẽ sống của mình, 
hết lòng vì nước, vì dân, liêm chính và luôn 
hoàn thành tốt công vụ được giao. Nếu bỏ 
sang một bên cái hạn chế lịch sử giai cấp thì 
hoạt động công vụ (nhận bất cứ nhiệm vụ gì 
khi được giao, “thăng” không kiêu, “giáng” 
không nản, tìm mọi biện pháp để hoàn 
thành nhiệm vụ), đạo đức công vụ (tận tuỵ, 
liêm chính, vì lợi ích chung, lợi ích của 
nhân dân) của ông vẫn là tấm gương cho 
cán bộ, đảng viên ngày nay học tập, noi 
theo. Nguyễn Công Trứ là một mẫu mực về 
khát vọng sáng tạo và thực hiện sáng tạo 
nhằm cải biến thực tiễn vì lợi ích của đất 
nước, nhân dân. Ông dũng cảm dâng lên 
Gia Long kế sách trị quốc từ khi chỉ là hàn 
sĩ vô danh. Ông đề xuất và chỉ đạo công 
cuộc khai hoang ở nhiều nơi, lấn biển ở Bắc 
Bộ thành công, có giải pháp phát triển 
thương nghiệp trong nông nghiệp, nông 
thôn nhằm phát triển kinh tế và ổn định 
chính trị xã hội. Triết lí “hành lạc”, “hưởng 
lạc” của Nguyễn Công Trứ là một hiện 
tượng vượt qua không gian xã hội phong 
kiến, có những yếu tố tích cực nhất định 
(phát triển toàn diện cá nhân, tôn trọng tự 
do cá nhân). Đó là một triết lí chưa được 
mài giũa, trình bày dưới dạng học thuyết, 
cho nên cũng còn chứa đựng nhiều yếu tố 
tiêu cực (khuyến khích tâm lý hưởng thụ; 
chưa chỉ ra được mối liên hệ giữa lao động 
cống hiến và hưởng thụ, hoàn cảnh kinh tế 
xã hội của chúng). Vì vậy, khi phân tích 
triết lí “hành lạc” của ông, cần có sự quan 
tâm hướng dẫn sâu sắc, cẩn trọng của người 
có trách nhiệm cầm bút, giảng dạy trên diễn 
đàn xã hội cũng như trong nhà trường. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Hữu Sơn (2019) “Xu thế sáng tác 
hướng tâm và ly tâm trong thơ Nguyễn Công 
Trứ”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1. 
[2] Trần Nho Thìn (2009), “Nhân cách của 
Nguyễn Công Trứ, nhìn từ quan điểm bản thể 
luận”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3. 
[3] Nguyễn Công Trứ (2000), Tổng tập văn học 
Việt Nam, tập 14, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[4] 
nam-ngay-mat-cua-nguyen-cong-tru-con-
nhieu-dieu-vo-le-ve-ong-dang-cho-phia-truoc-
2603, truy cập ngày 6/4/2018. 
[5] 
tru-nhung-bai-hay-nhat, truy cập ngày 15/10/2018. 
[6] 
nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/nguyen-
cong-tru-mot-ca-nhan-mot-danh-nhan, truy cập 
ngày 11/8/2018. 
Nguyễn Bình Yên 
75 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_nguyen_cong_tru_ve_nhan_sinh.pdf