Từ tinh thần thực chứng, tư duy phức đến tiếp cận hệ thống (Góp phần nghiên cứu lịch sử khoa học và công nghệ)
Tinh thần thực chứng (Positivist
spirit) mà hạt nhân của nó là chủ nghĩa
thực chứng (Positivism) là điểm khởi
đầu, cần thiết cho mọi khoa học hiện
đại. Tinh thần thực chứng hình thành
và phát triển trong một quá trình.
Những hạt mầm của nó đã có trong tư
tưởng những nhà triết học, nhà toán học
như nhà triết học người Pháp René
Descartes (1596-1650) - cha đẻ của chủ
nghĩa duy lý (rationalism), nhà triết học
người Anh Francis Bacon (1561-1626) -
người khai sinh ra chủ nghĩa thực
nghiệm (empiricism) và nhà xã hội học
người Pháp Saint-Simon (1760-1825).
Nó được hoàn thiện và hệ thống hóa bởi
nhà xã hội học Pháp Auguste Comte
(1798-1857), thư ký và người cộng tác
của Saint-Simon, được coi là cha đẻ của
chủ nghĩa thực chứng. Tinh thần thực
chứng còn được phát triển và bổ sung
sau đó bởi Pareto (Người Italia, 1848-
1923), Durkheim (người Pháp, 1858-
1917) hay nhóm Vienna Circle (áo).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ tinh thần thực chứng, tư duy phức đến tiếp cận hệ thống (Góp phần nghiên cứu lịch sử khoa học và công nghệ)
tác mô hình hóa tạo nên một bộ khung thiết kế để quan sát, nghiên cứu, phần nào đơn giản hóa những cái phức tạp. Mô hình hóa có tính chất hai mặt. Nếu là một mô hình khoa học đúng đắn, nó giúp rất nhiều cho nhà nghiên cứu trong việc khám phá. Nh−ng nếu nh− đó là một mô hình t− biện dựa trên định kiến hoặc đã lạc hậu, nó làm cho nhà nghiên cứu rất dễ lạc đ−ờng, dẫn đến nhiều sai lầm tai hại. Một hệ thống th−ờng bao chứa nhiều thành tố. Và cũng nh− những hạt của một quả, những thành tố này sẽ phát triển trở thành một tiểu hệ thống, rồi một hệ thống. Đó là những thành tố chủ chốt có sức chi phối sẽ trở thành nhân lõi của hệ thống trong những hệ thống đơn nhân hoặc đa nhân. Cũng có những thành tố sẽ dần dần suy yếu, mai một, bị triệt tiêu hoặc tự triệt tiêu(*). Nhìn chung, các thành tố đều thích ứng với một chức năng riêng của đặc tr−ng cấu trúc, nh− một lý do sinh tồn và vận hành theo chức năng đó. Tuy nhiên cũng có những thành tố tồn tại mà không hoạt động, phi chức năng, những “mẫu ruột thừa” của cấu trúc. Sự sắp xếp, bố trí các thành tố trong một cấu trúc th−ờng theo những loại hình, paradigm nhất định, tạo thành những đặc tr−ng bản sắc của cấu trúc, với những thế mạnh và hạn chế của nó. - Những mối liên hệ t−ơng tác là yếu tố quyết định sự sống còn của cấu trúc, trong quá trình vận hành của hệ thống tạo thành một hệ thống đa tác nhân (multi-agent system). Đó chính là hệ thần kinh và hệ tuần hoàn của cấu trúc. Một hệ thống cấu trúc khi những mối liên hệ t−ơng tác không còn hoạt động là một hệ thống cấu trúc chết. Có những mối liên hệ t−ơng tác mang tính máy móc của một cấu trúc nhân tạo và có những liên hệ t−ơng tác mang tính tự nhiên của một cơ thể hay một cấu trúc xã hội. Khám phá (discovery) và kiến tạo (construction) một cách hợp lý tối −u những mối liên hệ t−ơng tác của một cấu trúc là nội dung của vận trù học với (*) Ngày nay cách tiếp cận hệ thống đã đ−ợc sử dụng trong lý thuyết liên ngành, xuyên ngành, tức là quy luật và khái niệm từ một lĩnh vực nhận thức này đ−ợc áp dụng/trở thành đối t−ợng của lĩnh vực khác. 22 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2014 những khái niệm cơ bản nh− hộp đen (black box), đầu vào (input) và đầu ra (output), hệ thống kiểm soát và những thông tin phản hồi ng−ợc (feedbacks). Talcott Parsons (1902-1979) là ng−ời muốn đ−a vận trù học vào nghiên cứu xã hội, sáng lập ra môn vận trù học xã hội (Social operations research), trong đó ông gọi những mối liên hệ t−ơng tác là các đ−ờng sức xã hội (Social forces). Trong các mối liên hệ t−ơng tác xã hội có loại liên hệ tự phát và tự giác, đồng thuận và c−ỡng chế, cũng nh− những yếu tố tự do và sự can thiệp. Nhà nghiên cứu và những nhà hoạch định chính sách th−ờng tìm cách khám phá và lợi dụng những mối quan hệ t−ơng tác. Các mối liên hệ t−ơng tác trong một cấu trúc có thể theo chiều thuận hoặc nghịch, nh− trong thuyết Âm D−ơng của ph−ơng Đông, có t−ơng sinh và t−ơng khắc. Hợp lực của nhiều mối liên hệ t−ơng tác th−ờng không bằng tổng số các lực thành phần, mà có thể hơn hay có thể kém. Con ng−ời th−ờng tìm một ph−ơng án tối −u, làm cho hợp lực có giá trị tối đa, bằng cách sử dụng những lý thuyết và ph−ơng pháp Holistics (holism) và Synergetics. Nhà sáng chế và nhà chính trị khôn ngoan th−ờng tạo ra đến mức tối đa những mối liên hệ đồng thuận, t−ơng sinh, hạn chế đến mức tối thiểu những hiệu ứng t−ơng khắc, c−ỡng chế bằng cách thiết kế sao cho hệ thống cấu trúc vận hành, phát triển tự nhiên mà ít dùng đến sự can thiệp từ bên ngoài. Trong quá trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu th−ờng vận dụng lý luận hệ thống ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối. Giai đoạn giữa là quy trình điều tra thực chứng, khảo sát thực nghiệm. Tr−ớc khi điều tra thực địa, thu thập hồ sơ dữ liệu, nhà nghiên cứu, bằng vốn khoa học, kinh nghiệm và trực giác của mình th−ờng phác họa ra một mô hình sơ khởi định h−ớng nhằm giúp cho ng−ời nghiên cứu khái l−ợc hóa đ−ợc những đ−ờng h−ớng cơ bản để tập trung làm sáng tỏ. Có điều cần nhớ rằng đây chỉ là một mô hình dự kiến, một giả thiết ch−a thực chứng cần phải xác minh chỉnh sửa, hoàn thiện, cũng có thể phải thay thế, bác bỏ nếu nó mâu thuẫn với những bằng chứng thực nghiệm hoặc rơi vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Nếu mô hình sơ khai đ−ợc đề nghị tỏ ra về cơ bản phù hợp với những chứng cứ, nhà nghiên cứu lại vận dụng lý luận hệ thống trong khâu xử lý, đúc kết thông tin, rút ra những kết luận tổng hợp, tạo nên một mô hình chi tiết, hợp lý, đã đ−ợc chứng minh, tất nhiên trong một mức độ nhất định, vì dù cho có hoàn chỉnh đến đâu, vẫn cần dành chỗ cho những biện luận, bổ sung, cập nhật. Cần đặt hệ thống trong một toàn cảnh, một tổng thể cấp cao hơn, có nghĩa là coi nó nh− một tiểu hệ thống nằm trong một đại hệ thống, nói khác đi, là xét đến tác động của môi tr−ờng đối với đối t−ợng nghiên cứu, sự liên hệ của đối t−ợng với môi tr−ờng. Bản thân môi tr−ờng cũng đa dạng và chồng chéo: môi tr−ờng tự nhiên, môi tr−ờng nhân văn, môi tr−ờng tinh thần, tâm linh... Các điều kiện về địa lý, tự nhiên th−ờng là nền tảng, có tác dụng quan trọng chủ yếu, thậm chí quyết định lúc khởi đầu. Nh−ng càng về sau môi tr−ờng nhân văn phát huy ảnh h−ởng ngày càng lớn hơn, nhiều khi v−ợt trội ảnh h−ởng của môi tr−ờng tự nhiên. Môi tr−ờng tâm linh, văn hóa lúc Từ tinh thần thực chứng... 23 đầu th−ờng là ánh xạ của những điều kiện kinh tế vật chất, nh−ng sau đã trở thành một chủ thể độc lập, ảnh h−ởng trở lại đời sống vật chất - kinh tế. Đặc biệt cần nhận rõ vai trò của nó trong các hệ thống đóng kín của nền chuyên chế ph−ơng Đông. ở đây, hầu nh− vai trò chi phối xã hội là những thiết chế chính trị - xã hội, hệ t− t−ởng và tôn giáo, chứ không nghiêng về những tác nhân kinh tế. Tiếp theo là nghiên cứu đến cấu trúc hệ thống với những thành tố và sơ đồ bố trí, sắp xếp các thành tố đó. Sự phân tích, bóc tách là không dễ dàng. Thí dụ, trong xã hội Việt Nam truyền thống, ba thiết chế xã hội - chính trị mang tính chất đồng tâm và đồng dạng đã chồng lấn lên nhau: gia đình - làng xã - quốc gia. Cá nhân con ng−ời đồng thời là thành viên gắn bó với cả 3 thiết chế đó. Và tâm thức hành xử của họ là hợp lực (nh−ng không phải là tổng số) của những phản ứng của họ với 3 thiết chế trên. Trong một hệ thống cấu trúc, các thành tố th−ờng ở dạng xếp tầng, từ quá khứ, đến hiện tại, nh− những tầng văn hóa khảo cổ học. Vấn đề khó khăn nh−ng cần thiết là phải bóc tách ra từng tầng lớp đó, cố gắng tiếp cận đến nguyên dạng, nguyên mẫu của nó. Cũng cần xác định trong những thành tố đó, đâu là thành tố chủ yếu, hạt nhân, đâu là thành tố thứ yếu, phụ thuộc(*). Điều quan trọng hơn cả và cũng khó khăn hơn cả, là xác định cơ chế vận hành của hệ thống, trong quá khứ lịch sử cũng nh− trong đời sống hiện tại. Đó là những mối liên hệ t−ơng tác giữa các (*) Thí dụ trong một làng xã cụ thể, cần tìm ra một thiết chế trục của nó: thiết chế dòng họ, thiết chế địa vực hay thiết chế kinh tế? thành tố. Hệ thống là một cấu trúc động. Có những mối liên hệ ẩn, đã mất đi nh−ng có thể tìm lại những dấu vết trong những phong tục tập quán hay tín ng−ỡng. Có những liên hệ thuận, đồng thời với những liên hệ nghịch, tạo nên những mâu thuẫn biện chứng(*). Một vài nhận xét Khoa học ở Tây ph−ơng phát xuất và bùng nổ mạnh từ cuộc tranh đấu giữa tôn giáo và các “triết gia thiên nhiên” (natural philosophers) trong thời Khai sáng. Tr−ớc khi các cụm từ “khoa học” và “khoa học gia” xuất hiện, những ng−ời nghiên cứu hiện t−ợng thiên nhiên và đ−a ra các định luật về tự nhiên đ−ợc gọi là “triết gia” (philosopher) hay “triết gia thiên nhiên” (natural philosopher). Francis Bacon là ng−ời hệ thống hoá và kêu gọi vận dụng triết lý thực nghiệm làm nền tảng cho kiến thức. Con ng−ời chỉ có thể tìm và biết đ−ợc sự thật về sự vận hành của thế giới thiên nhiên qua cảm nghiệm (senses) về thế giới bên ngoài chứ không từ tâm linh, niềm tin hay th−ợng đế. Nền tảng khoa học ph−ơng Tây vì thế dựa trên cảm nghiệm và thực nghiệm. Từ Bacon đến Whewell và đến ngày nay, khoa học ngày càng phát triển và chia ra nhiều ngành, nhiều nhánh khác nhau, và đã trải qua rất (*) Tính tôn ti đẳng cấp và tính cộng đồng bình đẳng trong làng xã truyền thống Việt Nam là một ví dụ. Cũng vậy, ng−ời làm quan ngày x−a vừa là đầy tớ phục vụ dân (dân chi công bộc) vừa là cha mẹ của dân (dân chi phụ mẫu) thậm chí là ông chủ, vị chúa tể trong địa hạt mình cai trị, tạo nên một nhân cách l−ỡng phân. Tùy nơi và tùy lúc (không gian và thời gian), mối liên hệ quan - dân đó là đồng thuận hay c−ỡng chế. Nhà nghiên cứu cần nên tách biệt phân loại, tránh đánh đồng làm một. 24 Thông tin Khoa học xã hội, số 7.2014 nhiều khuynh h−ớng lý thuyết, lý luận, quan niệm... Thực tế là, đến đầu thế kỷ XX, ng−ời ta bắt đầu thấy rõ triết lý khoa học thực nghiệm và chủ nghĩa thực chứng là có nhiều giới hạn trong hầu hết mọi ngành. Ngay cả khi có những vật thể quan sát đ−ợc, điểm then chốt của thực chứng cũng đã bị chỉ trích và phủ định khi nó cho là có những quan sát hoàn toàn độc lập, và trung tính (neutral) với các lý thuyết, ý niệm, và ngôn ngữ. Ngay trong vật lý học, triết lý thực chứng cũng bị xem là lạc hậu và đ−ợc thay thế bởi triết lý phản nghiệm (chủ nghĩa phản nghiệm - falsificationism) của Popper... Trong quá trình hoạt động, thực tiễn đã cho thấy sự lạc hậu của những tr−ờng phái t− t−ởng, trào l−u lý thuyết thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đó cũng có thể coi là sự bất lực của những hệ luận tr−ớc sự thay đổi hết sức nhanh của đời sống. Thực tiễn nghiên cứu với t− duy thực chứng đã phần nào đáp ứng nhu cầu nhận thức lịch sử. Vấn đề là ng−ời phân tích không nên có một quan điểm đơn giản hóa hoặc chủ quan áp đặt, chỉ lựa chọn những thông tin nào phù hợp với định kiến có lợi cho chủ ý có tr−ớc của mình. Chúng ta đã thấy nhiều tai hại về học thuật và chính trị do thái độ tùy tiện này gây ra. Lúc đó, nhà nghiên cứu đã tự biến mình thành một ng−ời thuyết minh hoặc nhắc vở diễn. Những dữ liệu, sự kiện đã bị c−ỡng chế đặt lên chiếc gi−ờng sắt của Procruste, co kéo, chặt đốn, chỉnh sửa sao cho vừa khuôn khổ của bản đề dẫn hoặc t− t−ởng chỉ đạo. Với t− duy phức hợp, chúng ta nên thoát khỏi cái nhìn một chiều, sự đánh giá một chiều, lề thói “tốt khoe, xấu che”(*). Trang Tử nói: “Thị vô cùng, phi diệc vô cùng (nói phải là vô cùng, mà nói không phải cũng là vô cùng)”. Cốt lõi của t− duy phức hợp là tìm hiểu sự việc đến những ngóc ngách trong mê cung của nó, nh−ng cần tôn trọng sự khác biệt, khoan dung, khai mở. Cần nói thêm là, t− duy phức hợp cũng phản bác lại chủ nghĩa “quyết định luận” (determinism), xem xét đúng mức đến tính không biết tr−ớc và những yếu tố ngẫu nhiên trong quá trình phát triển của sự vật. T− duy phức hợp có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống, đặc biệt trong khoa học và giáo dục. Để trả lời những thách thức đặt ra từ tình trạng bất t−ơng thích giữa một bên là tri thức tách biệt thành các bộ phận rời rạc, khu biệt riêng rẽ và một bên là các thực tại đa chiều, tổng thể, các vấn đề đa ngành và xuyên ngành; cũng nh− những thách thức đặt ra từ tình trạng không phù hợp của ph−ơng thức giảng dạy, chỉ chú trọng phân cách các sự vật, sự việc, không dạy liên kết tri thức, các nhà khoa học và giới hoạch định chính sách đã tiến hành nghiên cứu và triển khai “khoa học phức hợp” - khoa học của thế kỷ XXI, đồng thời quan tâm đến mục tiêu của giáo dục và việc đào tạo (*) Nói về tính cách của ng−ời Việt, chúng ta chỉ nêu lên những truyền thống, giá trị tốt đẹp. Vậy còn những tật xấu thì sao? Nếu không tự nhìn vào mặt yếu, không tự phê phán, luôn tự mãn một cách ngây thơ vô lối, thì làm sao mà tiến bộ đ−ợc? Trong phán đoán, chúng ta không nên tiết kiệm, hoặc hoang phí thái quá những lời khen chê. Nhất là không nên khen chê một chiều. Phán đoán không phải là phán quyết. Việc phán đoán, đánh giá là việc nhà nghiên cứu phải làm, nh−ng việc phán xét, phán quyết chỉ nên dành cho lịch sử, thời gian và hậu thế. Từ tinh thần thực chứng... 25 những con ng−ời phù hợp với yêu cầu của thế kỷ XXI. “Sở dĩ khoa học vẫn là phức hợp, vì ngay trên ph−ơng diện xã hội học của nó đã có một cuộc đấu tranh, một tình thế đối kháng kiêm bổ sung giữa nguyên tắc đối thủ, xung đột các ý t−ởng, lý thuyết với nguyên tắc nhất trí, chấp nhận của quy tắc kiểm chứng và luận chứng” (Edgar Morin, 2008, tr.165). Nh− đã trình bày ở trên, khoa học đ−ợc chấp nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức tích cực đã đ−ợc hệ thống hóa. Lý luận hệ thống đ−ợc coi là một công cụ hữu hiệu thậm chí là một kim chỉ nam đối với các nhà nghiên cứu khoa học đ−ơng đại. Nhà nghiên cứu nói chung sau khi phân tích đánh giá kỹ l−ỡng những thành tố chi tiết, cần lùi xa để quan sát tổng thể hệ thống đó, rút ra những kết luận ban đầu về đặc tr−ng cấu trúc và xu thế vận hành. Đó là một cấu trúc đóng hay mở, hay vừa đóng vừa mở, các thành tố kết cấu chặt hay lỏng. Cơ chế vận hành, thông qua những liên hệ t−ơng tác thiên về tĩnh hay động, dễ hay khó chuyển đổi. Đặc tr−ng và xu thế của hệ thống cũng có thể phát hiện và nêu lên ở từng mặt cụ thể. Các nhà khoa học đã phát triển các lý thuyết về các hệ thống phức tạp mà thành tựu là hợp nhất với các lý thuyết hỗn độn (chaos theory), lý thuyết phức tạp (complexity theory)... nghiên cứu những hệ thống động, sự hỗn loạn và thích nghi phức tạp, đ−a công cụ toán học vào để mô tả hành vi hệ thống... Để hình thành một lý thuyết nghiên cứu hẳn nhiên là cả một quá trình dài với nhiều cá nhân đóng góp. Từ những tiếp cận gần gũi với khoa học xã hội và nhân văn (điển hình nh− trong nghiên cứu lịch sử, xã hội, khu vực học...) chúng tôi muốn có một cái nhìn trong sự phát triển các cách tiếp cận lý thuyết nghiên cứu từ thấp lên cao, từ đơn giản đến toàn diện hơn, chứ không thể nói đó là đã hoàn thiện ở nấc tiếp cận/lý thuyết hệ thống nh− trong nghiên cứu này. Hy vọng các nghiên cứu tiếp sau sẽ làm rõ hơn lịch sử phát triển của khoa học và công nghệ Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Đức Hiệp (2007), Triết lý khoa học hiện đại, Vietsciences. 2. Edgar Morin (2008), Nhập môn t− duy phức hợp, Chu Tiến ánh và Chu Trung Can dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 3. Trịnh Anh Tùng (2009), “Pierre Bourdieu: Thuật ngữ “Habitus” và khả năng ứng dụng để phân tích một vài vấn đề của xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, số 1. 4. Auguste Comte (1975), Cours de philosophie positive, Herman, Paris. 5. Blaise Pascal (1657), Les Pensées. 6. Oxford Dictionary of Philosophy, ms-theory
File đính kèm:
- tu_tinh_than_thuc_chung_tu_duy_phuc_den_tiep_can_he_thong_go.pdf