Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam

Tóm tắt: Ở Việt Nam, vấn đề truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số (DTTS) ít

người đã được đặt ra từ lâu và hiện nay vẫn được coi là cấp thiết, bởi sự thống nhất ý chí và củng

cố sức mạnh đoàn kết dân tộc, đồng thời thể hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc. Ngôn ngữ không

chỉ là thành tố cơ bản trong văn hóa mà còn là phương tiện để hình thành và lưu truyền trong đời

sống văn hóa tinh thần của một dân tộc. Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc, trong đó có

DTTS ít người góp phần bảo tồn và phát triển sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam.

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 3720
Bạn đang xem tài liệu "Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam

Truyền thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ít người ở Việt Nam
 Việt Nam tham gia. Luật xác 01/8/2015, có đến 6 DTTS ít người có tỷ lệ 
định rõ nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận người (15 tuổi trở lên) không biết đọc, biết 
thông tin. Trong đó có nguyên tắc: Mọi viết tiếng Việt chiếm từ 40% trở lên. Trong 
công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đó, dân tộc La Ha là 42,5%, dân tộc Lô Lô 
đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận là 45,5%, dân tộc Cơ Lao là 50,2%, dân tộc 
thông tin; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi Brâu là 51,8%, dân tộc Mảng là 56,2% và 
để người khuyết tật, người sinh sống ở khu dân tộc Lự là 57,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ người 
vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có nghe, nói được tiếng Việt thì cao hơn. Như 
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn vậy, nhìn chung, nhiều người DTTS ít 
thực hiện quyền tiếp cận thông tin [4]. Luật người không thể thực hiện tốt quyền tiếp 
quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà cận thông tin của mình nếu như không có 
nước từ cơ quan hành pháp, tư pháp đến cơ các hoạt động truyền thông sử dụng tiếng 
quan lập pháp cung cấp thông tin cho công mẹ đẻ của họ. 
98 
 Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Thị Phương Thanh 
 Thứ ba, truyền thông bằng ngôn ngữ bị hồn, mỗi khi có điều vui buồn thường lí giải 
mai một góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu theo tín ngưỡng, không theo khoa học, tổ 
lực của hoạt động tiếp cận thông tin. Việc chức cúng lễ tốn kém. Những tập tục, cách 
tiếng mẹ đẻ được dùng trên các phương tiện sống, lối nghĩ này cần được thay đổi để chất 
truyền thông chính thống chắc chắn sẽ lượng cuộc sống của bà con được cải thiện. 
khiến người dân các DTTS ít người có thêm Bên cạnh đó, các DTTS ít người cũng có 
niềm tự tôn dân tộc, tự hào về văn hóa dân nhiều nét đẹp trong văn hóa. Đó là hầu hết 
tộc mình, từ đó hào hứng và thích thú theo các dân tộc đều có hôn nhân một vợ một 
dõi để nắm được tốt hơn các nội dung chồng bền vững, ít có hiện tượng li dị, đa 
truyền thông. Điều này đồng thời có tác thê. Người Cống có mối quan hệ láng giềng 
động tăng cường hiệu lực truyền thông, thu gắn bó, có tinh thần tương trợ lẫn nhau rất 
hút được lượng người quan tâm đến truyền cao. Người Chứt có đời sống tinh thần 
thông đại chúng nhiều hơn. phong phú thể hiện qua hệ thống nhạc cụ 
 Thứ tư, truyền thông bằng các ngôn ngữ phong phú, dân ca và truyện kể hấp dẫn. 
bị mai một là phương tiện hữu hiệu để nâng Người Lô Lô có trang phục nữ độc đáo, 
cao chất lượng cuộc sống của DTTS ít công phu, đẹp như những tác phẩm nghệ 
người. Các DTTS ít người còn nhiều tập tục thuật. Những nét đẹp này cần được khẳng 
lạc hậu, hiểu biết mọi mặt còn hạn chế, định, tôn vinh và phát huy. 
nhiều hộ vẫn sống trong điều kiện khó 
khăn, kinh tế thấp kém. Chẳng hạn, đồng 
bào dân tộc Cống có cuộc sống nhìn chung 3. Nguyên nhân ngôn ngữ của các DTTS 
còn nghèo khó, nhưng cứ mỗi đám cưới, ít người chưa được sử dụng vào truyền 
dân bản có thể ăn uống, vui chơi suốt trong thông ở Việt Nam 
3 ngày 2 đêm. Mỗi người chết đi, có thể hạ 
cả một cây to, khoét rỗng, để làm quan tài. 3.1. Khó khăn về kinh phí và nhân lực 
Sự lãng phí khiến cuộc sống của bà con đã 
nghèo khổ càng thêm khốn khó, cây lớn bị Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, 
triệt hạ nhiều, rừng già dần bị xóa sổ. kinh phí cho truyền thông nói chung, cho 
 Nhiều tập tục vẫn còn ảnh hưởng không truyền thông bằng ngôn ngữ DTTS nói 
tốt đến kinh tế, môi trường, sức khỏe, đến riêng của quốc gia và của các tỉnh còn hạn 
sự tự do trong hôn nhân hay tự do trong hẹp. Các đài phát thanh truyền hình (PT-
phát triển cuộc sống của cộng đồng các TH) đang bước vào giai đoạn tự chủ về tài 
DTTS ít người. Chẳng hạn, Người Lự, khi chính. Làm phát thanh, truyền hình bằng 
trồng lúa thường cấy chay, không làm cỏ, tiếng Việt thì có thể cải thiện thu nhập bằng 
bỏ phân. Người Lô Lô có thể áp đặt chuyện quảng cáo, thương mại truyền thông. Làm 
hôn nhân (ấn định người vợ, người chồng phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc, không 
tương lai) cho một đứa trẻ vừa sinh ra; cấm có điều kiện cải thiện như vậy. Thực tế ở 
phụ nữ ăn thịt lợn, thịt gà. Người Cơ Lao có hầu hết các đài PT-TH hiện nay là thu nhập 
tục cho người đẻ khó uống nước rửa tay của của phòng Tiếng dân tộc đều rất hạn hẹp, 
người già hoặc nước rửa con thoi. Người Si điều kiện làm việc của anh chị em thực sự 
La có tục: cha mẹ còn sống, con trai dù đã khó khăn. Vì vậy, từ Trung ương đến các 
có vợ con cũng không được ra ở riêng. tỉnh, các cấp lãnh đạo đều phải đặt vấn đề 
Người Pà Thẻn, người Lự, và nhiều DTTS lựa chọn một số ngôn ngữ nhất định cho 
ít người khác còn tin vạn vật đều có linh truyền thông bằng ngôn ngữ DTTS, chưa 
 99 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 - 2019 
thể đưa tất cả ngôn ngữ DTTS vào truyền chưa phát triển, rất khó tìm người đã được 
thông, việc mở rộng thêm các ngôn ngữ đào tạo nghiệp vụ báo chí. Việc chọn người 
mới là rất chậm. có nhan sắc, có năng khiếu trong một tập 
 Vì kinh phí ít, nhân lực cũng bị cắt giảm. thể nhỏ hẳn khó hơn trong một tập thể lớn. 
Với các ngôn ngữ DTTS đã được duy trì 
làm phát thanh truyền hình từ lâu, nhân lực 3.2. Rào cản tiêu chí lựa chọn ngôn ngữ 
cũng đang bị biến động theo hướng đi truyền thông 
xuống, kéo theo tình trạng làm việc căng 
thẳng ở hầu hết các đài PT-TH tỉnh. Theo Thứ nhất, nước ta còn nghèo, kinh phí cho 
quan sát của chúng tôi, nhiều người làm truyền thông còn ít, nên tiêu chí đầu tiên 
phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc đang ở được đưa vào lựa chọn ngôn ngữ truyền 
chế độ hợp đồng đã bị chuyển sang thành thông chính là tiết kiệm. Cùng một hoạt 
cộng tác viên. Hơn nữa, việc lựa chọn nhân động truyền thông, mà số người có thể tiếp 
lực người DTTS cho truyền thông cũng cận được càng đông, có thể phủ sóng càng 
không hề dễ dàng. Bởi người làm truyền rộng thì hẳn là càng tốt. Nên thường thì 
thông, cụ thể là người làm phát thanh, ngôn ngữ của dân tộc lớn, cư trú trên địa 
truyền hình bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số bàn rộng; ngôn ngữ của những dân tộc có 
đều phải đáp ứng được nhiều yêu cầu: (1) uy tín, có ảnh hưởng lớn tới cộng đồng, 
Phải thạo ngôn ngữ DTTS; (2) Có giọng được coi là ngôn ngữ phổ thông vùng ở các 
hay; (3) Có khiếu nói; (4) Có nghiệp vụ báo phạm vi khác nhau (như tiếng Gia Rai, 
chí; và (5) nếu làm truyền hình thì còn cần tiếng Khmer, tiếng Chăm, tiếng Thái, tiếng 
tiêu chuẩn ngoại hình đẹp. Yêu cầu thứ hai, Tày,...) được ưu tiên lựa chọn vào truyền 
thứ ba, thứ năm là không dễ đạt được, bởi thông. Các ngôn ngữ bị mai một đương 
nó nghiêng về thiên bẩm. Yêu cầu thứ nhất nhiên không đáp ứng tiêu chí này. 
và thứ tư lại dường như đối lập nhau. Bởi Thứ hai, xếp sau tiêu chí tiết kiệm là tiêu 
những người đã xa môi trường tiếng mẹ đẻ chí tiện lợi. Vậy nên, các ngôn ngữ có vốn 
để đi học văn hóa, học chuyên nghiệp cho từ vựng phong phú, có chữ viết được Bộ 
đến tinh thông nghiệp vụ báo chí thì thường Giáo dục và Đào tạo công nhận, có từ điển, 
đã bị mai một vốn ngôn ngữ mẹ đẻ. Ngược sách dạy chữ; ngôn ngữ của dân tộc có bề 
lại, người có vốn ngôn ngữ mẹ đẻ phong dày về văn hóa sẽ được ưu tiên lựa chọn. 
phú lại thường là người chưa dứt khỏi môi Bề dày văn hóa sẽ là một thuận lợi cho việc 
trường dân tộc mình, thường chưa được đi tìm đề tài cho các tin bài. Vốn từ vựng 
đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ báo chí. phong phú, cùng bộ chữ viết sẽ tạo thuận 
Đây là khó khăn chung với việc chọn nhân lợi cho khâu viết bài, dịch thuật, lưu giữ. 
lực cho truyền thông bằng ngôn ngữ DTTS. Nhờ có chữ viết, các phóng viên có thể viết 
Hiện nay có bộ phận làm chương trình bài bằng chữ DTTS, văn phong sẽ mềm 
Tiếng dân tộc mà không có một người mại, chuẩn mực hơn văn phong của các bản 
DTTS nào như ở Đài PT-TH Thừa Thiên- dịch từ tiếng Việt. Cũng nhờ có chữ viết, 
Huế, hay chỉ có một người DTTS cho mỗi các biên dịch viên có thể dịch trước, ghi lại 
ngôn ngữ như Đài PT-TH Quảng Trị, bằng văn bản để có thời gian lựa chọn từ 
Đài PT-TH Ninh Thuận, Đài PT-TH Cao ngữ, trau chuốt cách diễn đạt. Các ngôn ngữ 
Bằng... Với các DTTS ít người, việc lựa bị mai một là ngôn ngữ của các dân tộc 
chọn nhân lực lại càng khó khăn gấp bội. nhỏ, chưa có chữ viết, khó đáp ứng được 
Bởi các dân tộc này ít người, lại thường tiêu chí này. 
100 
 Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Thị Phương Thanh 
 Thứ ba, tiêu chí hiệu quả. Theo đó, các ở một mức nào đó nên việc truyền thông 
dân tộc càng cần được tuyên truyền, giáo bằng ngôn ngữ DTTS nào cũng đều góp 
dục về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phần thực hiện mục tiêu bảo tồn, phát triển 
phòng, anh ninh, cần được cố kết cộng ngôn ngữ, văn hóa. Nhưng theo các tiêu chí 
đồng thì ngôn ngữ của họ càng được ưu tiên lựa chọn trên, hơn một nửa ngôn ngữ DTTS, 
sử dụng. Trong thực tế, việc áp dụng tiêu bộ phận có mức độ mai một cao hơn, nhu cầu 
chí này mới chủ yếu hướng tới các DTTS bảo tồn, phát triển bức thiết hơn, có nhiều 
cần tuyên truyền về chính trị, quốc phòng, người không biết tiếng Việt lại chính là bộ 
an ninh, cần tăng cường sự gắn kết của phận các ngôn ngữ chưa được đưa vào hoạt 
cộng đồng dân tộc đó với đại gia đình các động truyền thông. 
dân tộc Việt Nam. Điều này đồng nghĩa Những phân tích trên cho thấy các tiêu 
việc vận dụng tiêu chí mới nghiêng về đáp chí lựa chọn ngôn ngữ cho truyền thông 
ứng nhu cầu chung của quốc gia. Tuy bằng ngôn ngữ DTTS hiện hành có thể vận 
nhiên, hiệu quả của truyền thông cần phải dụng trong một giai đoạn nhất định, nhưng 
đến từ hai phía, bên cạnh hiệu quả nhìn từ không thể mãi kéo dài. Bởi nếu cứ kéo dài 
lợi ích quốc gia, còn cần chú ý tới hiệu quả việc sử dụng các tiêu chí này thì kết quả lựa 
đối với bản thân DTTS được tiếp cận truyền chọn ngôn ngữ truyền thông sẽ làm cho 
thông. Nếu xuất phát từ bản thân các DTTS những mục tiêu cơ bản của hoạt động 
này thì mục tiêu cũng rất quan trọng cần truyền thông bằng ngôn ngữ DTTS ở Việt 
quan tâm là tuyên truyền giáo dục về văn Nam chưa thể thực hiện được. 
hóa, khoa học, cách làm kinh tế (bên cạnh Khi điều kiện kinh tế của đất nước đi 
mục tiêu về chính trị, an ninh). Các dân tộc lên, kinh phí dành cho truyền thông DTTS 
có số dân càng nhỏ (thường cũng là những được cải thiện, cần ưu tiên hàng đầu cho 
dân tộc còn nghèo nàn, lạc hậu) càng việc truyền thông bằng ngôn ngữ bị mai 
cần được tuyên truyền giáo dục về các lĩnh một. Và ngay từ bây giờ, nên chuẩn bị từng 
vực đó. bước, để đưa các ngôn ngữ bị mai một vào 
 Thứ tư, các tiêu chí lựa chọn ngôn ngữ hoạt động truyền thông. 
truyền thông dựa trên điều kiện kinh phí có 
mặt mạnh cơ bản của chúng. Bởi việc lựa 
chọn ngôn ngữ truyền thông theo các tiêu 4. Kết luận 
chí này đã giúp cho truyền thông bằng ngôn 
ngữ DTTS tồn tại được trong điều kiện kinh Hoạt động truyền thông bằng ngôn ngữ của 
phí ngặt nghèo. Bên cạnh đó, nó còn ít các dân tộc thiểu số ít người có vai trò đặc 
nhiều đáp ứng trong việc nâng cao hiệu biệt với việc bảo tồn, phát triển ngôn ngữ, 
quả, hiệu lực truyền thông và nâng cao chất giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, góp 
lượng cuộc sống. phần bảo vệ vẻ đẹp đa sắc của văn hóa Việt 
 Tuy nhiên, việc lựa chọn ngôn ngữ Nam. Đồng thời, hoạt động này cũng giúp 
truyền thông theo các tiêu chí trên cũng đồng bào các DTTS có lượng người ít nhất 
khiến cho hai mục tiêu quan trọng hàng đầu Việt Nam, có điều kiện tiếp cận thông tin 
của truyền thông bằng ngôn ngữ DTTS là để mở mang nhận thức, thay đổi hành vi 
mục tiêu bảo tồn, phát triển ngôn ngữ, văn theo hướng tích cực; góp phần phát triển 
hóa và thực hiện quyền tiếp cận thông tin kinh tế, văn hóa xã hội ở vùng miền núi, 
lại chưa được đáp ứng tốt. Đành rằng, tất cả biên giới, tạo tiền đề quan trọng cho công 
các ngôn ngữ DTTS đều cần được bảo tồn tác an ninh, quốc phòng của đất nước; góp 
 101 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 - 2019 
phần thực hiện Luật Tiếp cận thông tin và truyền thông cấp xã. Dù ở cấp nào thì Nhà 
những chủ trương của Đảng, chính sách của nước cũng cần quan tâm, chỉ đạo và tài trợ 
Nhà nước về phát triển bền vững vùng về kinh phí. 
DTTS ở Việt Nam. Tuy nhiên, để truyền Năm là, bước đầu, với điều kiện kinh phí 
thông bằng ngôn ngữ của các dân tộc thiểu hạn chế, có thể chỉ chọn loại hình truyền 
số ít người ở Việt Nam thành công, chúng thông ít tốn kém là phát thanh và truyền 
tôi cho rằng: thông trực tiếp. Khi có điều kiện hơn, có thể 
 Một là, Bộ Thông tin và Truyền thông thêm các loại hình khác. Nên đưa các 
cần trực tiếp chỉ đạo thực hiện hoạt động chương trình Tiếng dân tộc lên trang web 
truyền thông bằng ngôn ngữ bị mai một, bởi để lưu giữ, tạo dần một dạng kho bảo tồn 
đây là một hoạt động tương đối phức tạp, ngôn ngữ, và cũng để người dân tiếp cận 
tốn kém, cần một sự điều hành chung. được thuận lợi. 
 Hai là, để chuẩn bị cho hoạt động này, Sáu là, các chương trình phát thanh bằng 
Bộ Thông tin và Truyền thông cần chỉ đạo những ngôn ngữ bị mai một nên bắt đầu với 
việc tuyển chọn người thuộc các DTTS ít thời lượng nhỏ (15 phút), sau tăng dần lên 
người đã tốt nghiệp phổ thông, nắm vững khi có điều kiện. Tần suất cũng có thể bắt 
tiếng mẹ đẻ, có năng khiếu báo chí, ưu tiên đầu ở mức độ thấp (1 chương trình/ tuần), 
người có ngoại hình đẹp để đào tạo về sau có thể tăng dần. 
nghiệp vụ báo chí. Nên ưu tiên việc chuẩn 
bị cho những ngôn ngữ có mức độ mai một 
cao và có nhiều người dân cần thực hiện Tài liệu tham khảo 
quyền tiếp cận thông tin như tiếng La Ha, 
Ngái, Cờ Lao, Lô Lô, Brâu, Mảng, Lự. [1] Trần Trí Dõi (2016), Ngôn ngữ các dân tộc 
 Bên cạnh đó, cần phối hợp với Viện thiểu số ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà 
Ngôn ngữ học, Bộ giáo dục và Đào tạo có Nội, Hà Nội. 
kế hoạch từng bước xây dựng bộ chữ viết [2] Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận báo 
và dạy tiếng cho thế hệ trẻ của các dân tộc chí, Nxb Lao động, Hà Nội. 
có ngôn ngữ bị mai một. [3] Nguyễn Hữu Hoành (Chủ biên) (2012), Ngôn 
 Ba là, từng bước đưa các ngôn ngữ bị ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam 
mai một đã được chuẩn bị vào truyền thông. (Những vấn đề chung), Nxb Từ điển Bách 
Các ngôn ngữ đã đào tạo được đội ngũ làm khoa, Hà Nội. 
truyền thông, được nhiều người sử dụng và [4] Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 
đưa vào truyền thông trước. Nam (2016), Luật tiếp cận thông tin số 
 Bốn là, các DTTS ít người đều có số dân 104/2016QH13, ngày 9 tháng 4, Hà Nội. 
nhỏ, nên cấp truyền thông không gây tốn [5] Viện Dân tộc học (2014), Các dân tộc ít người 
kém, phù hợp với các dân tộc này là truyền ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), Nxb Khoa học 
thông cấp huyện, xã. Nếu dân tộc không xã hội, Hà Nội. 
quá ít người (như La Ha, Pà Thẻn, Chứt, [6] Viện Dân tộc học (2014), Các dân tộc ít người 
Lự, Mảng, Lô Lô, Cơ Lao, Bố Y, Cống) thì ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Nxb Khoa 
thực hiện truyền thông cấp huyện ở một học xã hội, Hà Nội. 
hoặc một số huyện mà họ sinh sống. Với [7] 
các ngôn ngữ quá ít người (như Ngái, Si La, tra-thuc-trang-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-cua-53-
Pu Péo, Rơ Măm, Brâu) thì có thể thực hiện dan-toc-thieu-so-nam-2015.htm
102 
Nguyễn Thị Nhung, Nguyễn Thị Phương Thanh 
 103 

File đính kèm:

  • pdftruyen_thong_bang_ngon_ngu_cua_cac_dan_toc_thieu_so_it_nguoi.pdf