Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử

Lão Tử là người sáng lập nên Đạo Gia, là người viết nên Đạo Đức

Kinh - một trong những cuốn sách đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học

Trung Quốc cổ đại. Trong tác phẩm này, Lão Tử đã thể hiện các quan niệm

về thế giới, về quy luật vận hành biến đổi của vũ trụ. Không chỉ dừng lại ở

các quan niệm về thế giới, bản thể của thế giới, Lão Tử còn cho thấy những

tư tưởng triết lý sâu sắc về con người, về đời sống của con người. Đó là triết

lý về lối sống khiêm nhường, cần kiệm, biết thoả mãn với hiện tại, không

tranh công. Đó cũng là bài học để con người ngày nay đạt được đến cuộc

sống an yên, hạnh phúc.

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử trang 1

Trang 1

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử trang 2

Trang 2

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử trang 3

Trang 3

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử trang 4

Trang 4

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử trang 5

Trang 5

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử trang 6

Trang 6

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 1981
Bạn đang xem tài liệu "Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử

Triết lý nhân sinh trong “Đạo đức kinh” của Lão Tử
i Đạo ở 
trạng thái nguyên sơ là tất yếu, đó là thiên quy, là “đạo pháp tự nhiên”. Cứ để vạn vật 
thuận theo cái bản chất vốn có đó mà tự sinh tự trường tồn, thuần phác như Đạo. Con 
người nhận thức được đủ quy luật phản phục này để thấy vòng tuần hoàn của tạo hoá, 
để tránh can thiệp vào bản chất sâu xa của sự vật mà làm trái với quy luật. “Phục mệnh 
là bất biến, biết được cái bất biến thì sáng suốt. Không biết cái bất biến thì làm càn, làm 
càn thì gây hoạ” [3; tr.75]. 
Luật quân bình và phản phục của Lão Tử không đơn giản chỉ là quan niệm về mọi sự 
vận động chuyển hoá của vạn vật trong tự nhiên, ông đã nâng lên thành một nghệ thuật 
sống của con người với lối sống hoà hợp, nhân ái; hoà hợp với tự nhiên, hoà hợp với xã 
hội, hoà hợp với mọi người xung quanh, hoà hợp giữa tâm hồn và thể xác con người. 
Với cách hiểu thấu đáo hơn sự chuyển vần vĩnh cửu của các phạm trù đối lập nhau: 
động - tĩnh, nóng - lạnh, thấp - cao, mềm - cứng, thiện - ác, tốt - xấu ông đã chỉ ra 
rằng muốn vươn lên hãy cứ khiêm nhường, muốn có được bình yên hãy cho đi bình 
yên, cứ vui sống hồn nhiên hợp quy luật sẽ nhận được thanh thản hạnh phúc. 
2.2. Triết lý nhân sinh trong tác phẩm “Đạo đức kinh” của Lão Tử 
Theo Lão Tử, vạn vật sinh ra và biến đổi nhờ có “Đạo”. Trên thế giới không có sự vật bất 
biến, và trong quá trình biến đổi, mọi sự vật đều chuyển thành mặt đối lập của nó. Con 
người phải noi theo tính tự nhiên của sự vật, chớ nên triết lý hão huyền. Đạo Gia phản đối 
sự thống trị và áp bức, kêu gọi một cuộc sống công bằng, thuận theo tự nhiên, làm cho 
con người “giữ được trọn vẹn bản tính của mình”. Việc tuân thủ những quy luật tự nhiên 
đó cũng cần thiết giúp cho con người có được tài trí và nhận thức được chân lý.
Từ quan 
điểm về Đạo, Lão Tử đưa ra vấn đề về lối sống của con người, từ cách đối nhân xử thế 
của người quân tử đến cách tự rèn giũa bản thân. Dẫu tất cả xuất phát từ việc hoà đồng 
với Đạo - một bản thể siêu nhiệm thì những bài học nhân sinh mà Lão Tử đề cập đến vẫn 
rất gần gũi và hữu ích cho mỗi cá nhân trong công cuộc hoàn thiện bản thân. 
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG “ĐẠO ĐỨC KINH” CỦA LÃO TỬ 193 
2.2.1. Triết lý về lối sống hoà đồng , chất phác và tri túc 
Lão Tử cho rằng: “Ngã hữu tam bửu nhất viết từ, nhị viết kiệm, tam viết bất cảm vi 
thiên hạ tiên” [3; tr.179] (Ta có ba vật báu Một là Từ, hai là Kiệm, ba là không dám 
đứng trước thiên hạ). Từ là yêu thương tất cả mọi người, kể chi đối với người tốt hay kẻ 
xấu. Từ là dám xem kẻ thù như người bạn, không lấy oán mà báo oán. Con người sống 
trong đạo vô vi như thế mới thanh thản, mới không chấp niệm những giận dữ, oán trách, 
thù hằn. 
Thiên hạ thì lấy xa xỉ, khoa trương, hào nhoáng vật chất làm mục đích tiến thủ, tranh 
nhau đua đòi sự xa hoa lộng lẫy, với họ thì những thứ danh lợi tiền của càng nhiều bao 
nhiêu càng hay bấy nhiêu Lão Tử trái lại khuyên mỗi người: “Thánh nhân khứ thậm, 
khứ xa, khứ thái” [3; tr.103] (Thánh nhân từ bỏ sự cực đoan, xa xỉ, và cao sang) và phải 
biết tiết kiệm, coi đó như một yêu cầu của bậc thánh nhân trị quốc. 
Người đời đều xem việc thể hiện vị thế của mình là niềm vinh dự, luôn tranh giành nhau 
để được ăn trên ngồi trước. Nhưng với Lão Tử thì khuyên không nên “đứng trước thiên 
hạ”, cần phải khiêm cung từ tốn. “Từ”, “Kiệm”, và “bất cảm vi thiên hạ tiên”, đó đều là 
những hành động vô vi trong đối nhân xử thế. 
Lão Tử không chỉ đưa ra cách để con người tự hoàn thiện bản thân theo đạo vô vi mà 
ông còn cất công đi tìm nguyên nhân sâu xa của sự sa đọa của loài người. Theo Lão Tử, 
nguyên nhân chính, duy nhất là tại loài người mỗi ngày một xa Đạo, không sống thuận 
theo Đạo, tức thuận theo tự nhiên, mất sự chất phác, có nhiều dục vọng quá, càng thông 
minh lại càng nhiều dục vọng, càng xảo trá, tranh giành, chém giết nhau. Lão Tử than: 
“Đại Đạo phế hữu nhân nghĩa, huệ trí xuất hữu đại ngụy ” [3; tr.78]. Loài người càng 
khôn ngoan hơn thì sự dối trá càng nhiều hơn và dùng “Lễ” để che đậy khéo léo hơn, và 
cái sự làm “cái không nên làm” ngày càng nhiều hơn. Và Lão Tử kết luận, chỉ có một 
cách là thay đổi lối sống, trở về với Đạo, với tự nhiên, tức là phải “phản phác”. Bước 
đầu là “quả dục”, giảm thiểu dục vọng. “Đạo thường vô danh. Vua chúa nếu biết giữ 
được Đạo, vạn vật sẽ tự biến hoá. Biến hoá mà muốn ngoi lên, ta nên trấn áp bằng cái 
vô danh mộc mạc. Đè nén bằng cái vô danh mộc mạc rồi thì không còn ham muốn nữa.
Không ham muốn thì thanh tĩnh. Thiên hạ sẽ tự yên” [3; tr.119-120]. Ông cho rằng, con 
người chỉ cần thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên tối thiểu: bụng thì no, xương cốt thì 
mạnh, còn những vật hiếm chỉ gợi lòng tham khiến cho xã hội bị loạn thì bỏ hết bởi 
“Màu sắc khiến mắt người mờ. Rong ruổi săn bắt làm lòng người phát cuồng. Các vật 
hiếm lạ khiến người ta phải đi tìm bốn phương. Nhiều mùi vị chỉ khiến người ta lẫn lộn. 
Nhiều âm thanh chỉ làm tai người ta điếc” [3; tr.64]. 
“Quả dục” thì phải biết “tri túc”, “họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại 
không gì không gì bằng tham muốn cho được nhiều. Biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái 
đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ” [3; tr.137]. “Tri túc” là điều kiện cốt yếu của hạnh phúc. 
Đối với mình thì “quả dục”, “phản phác”, đối với người “khiêm nhu”. Mà “phác”, 
“nhu” đều là những đức tính của “đạo”, vì vậy nhân sinh quan của Lão Tử chung quy lại 
là thuận theo “đạo”, không cưỡng lại quy luật tự nhiên của tạo hóa. 
194 BÙI THỊ PHƯƠNG THƯ 
2.2.2. Triết lý “mềm thắng cứng - nhu thắng cương” 
Theo lẽ thường, thì phải lấy Mạnh mà thắng Mạnh, còn với Lão Tử thì trái lại lấy Nhu 
mà thắng Cương, lấy Nhược mà thắng Cường. Lão Tử viết : “Nhu nhược thắng cương 
cường” và ông đã đưa ra ví dụ nhu thắng cương: “trong thiên hạ cái cực mềm (là nước) 
chế ngự được cái cực cứng (đá)”, vì nước xói mòn được đá; “không có” lại len vô được 
cái không có kẽ hở (như không khí len vào được những chất đá, gỗ cứng mà trông bề 
ngoài ta không thấy kẽ hở”. Và cao hơn nữa lấy “cái không tranh mà thắng được một 
cách vẹn toàn” (bất tranh nhi thiện thắng) [3; tr.191], và “trong thiên hạ cái rất mềm thì 
làm chủ cái rất cứng” [3; tr.132] không tranh mà vẫn giỏi khuất phục thiên hạ. Theo Lão 
Tử vì biết nhu, biết mềm mỏng, chịu khuất thân thì thân mới được bảo toàn; khiêm thì 
không tự đại; không tự kể công, không tự phụ. Khiêm thì không tranh với ai vì “đạo trời 
không tranh mà khéo thắng”. Đó là Vô Vi trong đạo tranh đấu. 
Lão Tử lấy cây cỏ và chính con người làm ví dụ, con người khi còn trẻ, cơ bắp mềm dẻo 
thì khoẻ khoắn, đến khi về già thì xương cứng giòn dễ gãy và lúc chết thì thân xác cứng 
đơ. Cũng như thế, cây cỏ khi còn non sức sống thì dẻo dai, chịu được giông bão gió 
sương, đến khi già thì khô giòn, gặp gió to cũng dễ bị quật ngã. Khiêm nhường và 
không tranh giành, ganh đua là đức tính tốt của bậc thánh nhân. Sông biển sở dĩ có thể 
làm vua trăm hang bởi vì khéo ở dưới (Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả dĩ 
kỳ thiện hạ chi), bởi vì nó không tranh nên thiên hạ không cùng tranh với nó được (Dĩ 
kỳ bất tranh, cố, thiên hạ mạc năng dữ chi tranh) [3; tr.177]. Thánh nhân là những 
người lãnh hội được đạo thể, thực hiện được đạo thể nơi mình, nên không ra khỏi nhà 
mà vẫn thấu suốt thiên hạ sự. Các ngài sống khiêm cung đơn sơ, hồn nhiên, tiêu sái, hoà 
nhập với trời, treo gương sáng cho đời, sống giữa hồng trần mà chẳng vương tục lụy, 
chẳng để cho vinh nhục lợi danh và những thú vui giác quan làm tản lạc tâm thần, mờ 
ám lương tâm. Nguyện ước của Lão tử là muốn cho mọi người đều thấu được chân lý 
vận hành của Đạo, để cõi trần gian này sống trong thanh bình hoan lạc. 
2.2.3. Triết lý về lối sống khiêm nhường, lập công nhưng không tranh công
Con người lý tưởng mà Lão Tử gọi là thánh nhân là người huyền đồng với Đạo, mọi hành 
động đều tuân theo Đạo mà làm. Vì là con người hoà đồng với Đạo nên sẽ không cư xử 
tầm thường, sẽ không dễ để ai nắm bắt dễ dàng tâm tư trí lực. Trong khi kẻ vũ phu tầm 
thường hành động xốc nổi, bồng bột, hung hăng thì bậc thánh nhân cư xử dè dặt, cẩn thận, 
nghiêm kính, ở họ là sự tinh tế, nhiệm màu, sâu sắc của Đạo. Trong khi kẻ vũ phu tầm 
thường tự đề cao mình, tự cao tự đại, kiêu căng phách lối thì bậc thánh nhân có thể bỏ qua 
cái tôi cá nhân của mình vì việc lớn, đó là sự bao la của Đạo mà không kể công không đòi 
hỏi đền đáp. Trong khi người tầm thường có cuộc sống khoe khoang, tỏ ra hiên ngang 
quý phái thì bậc thánh nhân có dáng vẻ mộc mạc, giản đơn đến thậm chí khờ khạo nhưng 
không xa cách mà hoà đồng dung dị với tất cả từ con người đến thiên nhiên. 
Thánh nhân không sống cho vẻ ngoài hào nhoáng hay bị cuốn theo dòng chảy xô bồ của 
cuộc sống, do đó họ cũng chẳng cần để tâm đến chuyện tầm thường của thiên hạ. 
Những khen chê, phỉ báng, thị phi chẳng phải là mối bận tâm của họ. Trái lại họ “giũa 
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG “ĐẠO ĐỨC KINH” CỦA LÃO TỬ 195 
mài cái sắc sảo của lý trí, bỏ sự tách bạch, biện biệt chi li, chia sẻ ánh sáng với tha nhân, 
trộn lẫn với bụi bặm của thế tục. Huyền đồng với Đạo cũng chính là hoà đồng với thiên 
nhiên vạn vật và nhân thế để chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ với những kẻ khốn 
cùng.” [2, tr.239]. Huyền đồng tức là trở nên một với Đạo, không tự cho mình là sáng, 
là duy nhất, là cao hơn mọi người. Thánh nhân sống cuộc đời phải vì chúng sinh nhân 
loại, không phải chỉ lo tích luỹ của cải cho riêng bản thân mình. Họ phải hành xử như 
Đạo, chỉ làm lợi cho dân mà không khoe khoang kể công, không tranh giành với ai. 
“Sông biển được làm vua trăm suối khe vì khéo ở chỗ thấp. Vì vậy thánh nhân muốn ở 
trên dân thì phải nói lời khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi ra sau. Cho nên ở trên 
mà dân không thấy nặng, ở trước mà dân không thấy hại. Thiên hạ đều vui mà không 
chán. Có phải vì không tranh với ai nên thiên hạ chẳng tranh với chăng?” [3; 178,179]. 
2.2.4. Ý nghĩa của triết lý nhân sinh trong tác phẩm Đạo Đức Kinh đối với đời sống 
của con người trong thời đại ngày nay 
Lão Tử là một triết gia đề cao đức tính khiêm nhường của con người. Không nên kiêu 
căng, tự phụ, tự cho mình đúng, nhưng nên cố gắng khẳng định vị thế, tiếng nói của 
mình; không kể công mà nên luôn cố gắng để lập công. Có lẽ sống đó, con người sẽ
hoàn thiện hơn, có nhiều điều kiện để hoàn thiện hơn. Vì không kiêu căng với ai nên 
không bị ai hại; vì không tranh với ai, nên không ai tranh với mình, nhờ đó mà sống 
bình an thanh thản. Biết đủ, biết hài lòng với cuộc sống, biết tu thân dưỡng tính là cội 
nguồn của hạnh phúc. 
Theo Lão Tử, khiêm hoà là thái độ trân trọng đối với tiềm năng và tiến trình vận động 
của tự nhiên. Đây cũng là thái độ của bậc đại dũng, người có thể tự thắng mình trong 
quá trình hoà nhập vào dòng chảy cuộc đời. Từ thái độ có thể dẫn đến diễn biến cuộc 
đời và thành công hay thất bại, hạnh phúc hay khổ đau của con người. Điềm đạm là thái 
độ hiểu biết và trân trọng tiến trình của tạo hoá. Những biểu hiện đúng - sai, thiện - ác, 
sinh - tử, hoạ - phúc, vinh - nhục đều là những biến động nhất thời trong dòng chảy 
bất tận của tạo hoá. Người thấu hiểu được sẽ biết những mặt này luôn tồn tại song hành 
với nhau, từ đó mà có cái nhìn tĩnh lặng, tâm không xáo trộn với những biến cố đến 
trong đời. Kẻ hiểu Đạo sẽ điềm nhiên đón nhận mà không dằn vặt, oán than, để từ đó 
thấy được bình an trong chính nguy nan trước mắt. Sự tinh tế nhiệm màu của người hiểu 
rõ được thể hiện ngay chính ở thái độ sống khiêm hoà và điềm đạm. 
Bài học quý cho hạnh phúc của con người mà Lão Tử muốn nhắc đến chính là sự từ bỏ 
những ước muốn thái quá. Giảm bớt lòng tham riêng, giảm bớt tính sở hữu vật chất 
ngoài thân là góp phần hình thành nên đời sống giản dị, huyền đồng, phù hợp với các 
quy luật vận hành của Đạo. Theo đó, mọi sự thái quá đều là nguồn gốc của tai hoạ, con 
người phải biết đủ biết dừng. Sở hữu hay tích trữ quá nhiều vật ngoài thân là nguyên 
nhân phát sinh lo lắng và mất mát. Thói thường người ta không đau khổ vì sự thiếu thốn 
của bản thân mà đau khổ sau khi so sánh và choáng ngợp vì sự dư thừa của kẻ khác. 
Muốn an yên hạnh phúc phải biết từ bỏ thói quen bám víu và tôn sùng những thứ không 
thuộc về mình, đừng để luỵ vào những vật ngoài thân. Tâm hồn con người cũng như 
196 BÙI THỊ PHƯƠNG THƯ 
mặt nước, khi bình lặng thì yên lành trong sáng; khi bị xáo động bởi dục vọng thì mờ 
đục dậy sóng. Hãy theo bài học của Lão Tử mà chiêm nghiệm lại bản thân mình, học 
cách thư giãn, tỉnh táo, bình thản, điềm nhiên sẽ tìm được an lạc trong tâm hồn. 
3. KẾT LUẬN 
Tác phẩm Đạo Đức Kinh của Lão Tử có ảnh hưởng không nhỏ đối với nền văn hoá của 
nhân loại. Là tác phẩm ngắn gọn nhưng thâm sâu và trải dài ý nghĩa ở nhiều tầng, Đạo 
Đức kinh đã nêu lên toàn bộ quan điểm của Lão Tử về quy luật vận hành của vũ trụ, của 
xã hội và của đời sống con người. Từ cách nhìn về quy luật của tự nhiên, vạn vật, Lão 
Tử đã rút ra những triết lý riêng cho lối sống hoà đồng của con người. Đó là lối sống 
biết khiêm nhường, cần kiệm giản dị, luôn nỗ lực để thành công nhưng không tranh 
công; với người khác thì yêu thương kính trọng, với bản thân thì nghiêm khắc, không 
đua đòi xa xỉ. 
“Ngậm miệng lại, bịt mắt tai, không sinh sự với ai cho nên không bị mang hoạ. Nhụt 
bén nhọn, bỏ chia phân cho nên không bị ai ghét. Hoà ánh sáng, đồng bụi bậm cho nên 
thích ứng với mọi tình huống và luôn cảm thấy an vui. Theo Lão Tử, người biết được 
các triết lý trên là người chẳng những kéo dài được sự sống của thân xác mà còn duy trì 
được sự sống siêu nhiên của bản tính, không bao giờ bị lãng quên cho dù thân xác có 
lúc chết. Đó là: 
Không mất bản tính là lâu dài 
Chết mà không mất là sống lâu 
(Bất thất kỳ sở giả cửu 
Tử nhi bất vong giả thọ)” [3; tr.111]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Giáo trình triết học Mác - Lênin (2004). NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] C.Alexander Simpkins, Annellen Simpkins - Thanh Chân biên dịch (2004). Đạo - 
nguyên lý sống hoà hợp và quân bình - vận dụng các nguyên lý của Đạo gia để xây 
dựng đời sống khang kiện và hạnh phúc, NXB Mũi Cà Mau. 
[3] Lão Tử. Đạo đức kinh (2019). Vũ Thế Ngọc dịch, NXB Thế Giới, Hà Nội. 
[4] Nguyễn Kim Hanh (2006). Đạo lý của Lão Tử, NXB Công an nhân dân. 
[5] Nguyễn Hữu Vui (2004). Lịch sử triết học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 
Title: THE HUMAN PHILOSOPHIES IN “TAO TE CHING” OF LAO TZU 
Abstract: Lao Tzu is the founder of Taoism, who wrote the Tao Te Ching - one of the most 
remarkable books in the history of ancient Chinese philosophy. In this work, Lao Tzu embodied 
the concepts of the world, the laws of the changing operation of the universe. Not only stopping 
at the conception of the world, the origin of the world, Lao Tzu also shows profound 
philosophical thoughts about human, about human life. That is the philosophy of a humble, 
frugal lifestyle, satisfied with the present, not fighting. It is also a lesson for people today to 
achieve a peaceful, happy life. 
Keywords: Lao Tzu, Tao Te Ching, philosophy, human. 

File đính kèm:

  • pdftriet_ly_nhan_sinh_trong_dao_duc_kinh_cua_lao_tu.pdf