Tổng quan về đầu tư điện gió, mặt trời và đề xuất cho Việt Nam
Thực tế tại các quốc gia phát triển năng lượng tái tạo cho thấy nhà đầu tư dự
án điện gió và mặt trời rất đa dạng. Mỗi nhà đầu tư có nguồn lực và mục tiêu khác
nhau khi đầu tư vào lĩnh vực này. Bên cạnh nguồn vốn, con người, các yếu tố khách
quan thuộc về thể chế chính sách, trình độ phát triển công nghệ, điều kiện tự nhiên có
ảnh hưởng đáng kể đến quyết định của nhà đầu tư trong việc lựa chọn công nghệ và
quy mô dự án. Bằng việc tổng hơp, phân tích các nghiên cứu liên quan đến hành vi của
nhà đầu tư điện gió và mặt trời trên thế giới, đặc biệt tại Đức, tác giả đánh giá các yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư dự án điện gió và mặt trời. Trong đó, yếu tố chính
sách được phân tích kĩ nhằm hiểu được ảnh hưởng khác nhau của mỗi loại cơ chế,
công cụ chính sách đến từng nhóm nhà đầu tư. Căn cứ vào đó người làm chính sách có
thể điều chỉnh cơ chế, công cụ chính sách định hướng nhà đầu tư đạt được mục tiêu
phát triển. Với thực tế phát triển điện gió và mặt trời ở Việt Nam, tác giả đề xuất một
số công cụ thúc đẩy phát triển đầu tư lĩnh vực này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan về đầu tư điện gió, mặt trời và đề xuất cho Việt Nam
iới. Ấn Độ hiện đang sử dụng công cụ này để có huy động được nguồn tài chính cho mục tiêu phát triển điện gió và mặt trời. Quốc gia này bắt đầu sử dụng công cụ này vào năm 2015 và tổng nguồn vốn thu được là 1.1 tỷ USD. Tháng 1/2016, Ủy ban Chứng khoán Ấn Độ đã ban hành các quy định chính thức về trái phiếu xanh (IRENA, 2016). 248 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017 Nhóm các công cụ chính sách tài khóa Công cụ thuế và phí: có nhiều loại thuế như thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế đất đai. Nhà nước có thể miễn, giảm, hoặc gia hạn thời gian nộp các khoản thuế đối với các dự án nhà máy điện gió và mặt trời. Trợ giá: là hình thức nhà nước trả thêm cho người sản xuất một khoản tiền bù đắp cho thiệt hại do phải bán sản phẩm với giá thấp. Tại nhiều quốc gia để trợ giá cho các nguồn điện tái tạo, Chính phủ trích từ nguồn ngân sách Chính phủ ra để trả cho phần chênh giữa FIT và giá thị trường. Quỹ nghiên cứu và phát triển: là khoản quỹ Chính phủ dành ra cho các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ. Hàn Quốc đầu tư 20,000 USD/năm/nghiên cứu điện gió và mặt trời (Chang, et al., 2016). Tại Đức, quỹ nghiên cứu năng lượng của Chính phủ Đức trong giai đoạn 2011 – 2014 lên đến 3.5 tỉ Euro [BMWi, 2010]. Nhóm quy trình thủ tục Hệ thống văn bản: những văn bản yêu cầu liên quan đến thủ tục cấp giấy phép đầu tư, cho vay vốn, cho thuê đất, văn bản liên quan đến hoạt động mua bán điện. Hỗ trợ về chuẩn bị tài liệu hồ sơ dự án, quy trình thủ tục thẩm định dự án càng đơn giản, càng thu hút nhà đầu tư. Để làm được điều này có thể sử dụng các công cụ như ban hành các loại giấy tờ tiêu chuẩn theo từng nhóm dự án. Ví dụ, chuẩn hóa hồ sơ cho các dự án điện gió riêng, điện mặt trời riêng, quy mô dự án khác nhau yêu cầu hồ sơ khác nhau. Thời gian xử lý ra quyết định: thời gian xử lý hồ sơ ra quyết định liên quan đến thủ tục cấp giấy phép đầu tư, vay vốn, thuê đất, mua bán điện. Thời gian xử lý càng nhanh, càng thu hút nhà đầu tư. 4. LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ VÀ QUY MÔ DỰ ÁN ĐIỆN GIÓ VÀ MẶT TRỜI 4.1. Công nghệ và quy mô dự án điện gió và mặt trời Trước hết nhà đầu tư sẽ cân nhắc lựa chọn loại công nghệ để đầu tư: điện gió đất liền, điện gió ngoài khơi, điện mặt trời trên mái nhà hay dưới mặt đất. Sau khi đã lựa chọn được loại công nghệ, tiếp theo nhà đầu tư cân nhắc lựa chọn quy mô nhà máy: quy mô lớn, vừa hay nhỏ. Tùy thuộc nguồn lực, đánh giá các yếu tố môi trường đầu tư và kì vọng, nhà đầu tư điện gió lựa chọn công nghệ và quy mô dự án đầu tư. Đối với điện gió, có hai loại turbin là turbin trục đứng và turbin trục ngang. Turbin trên đất liền thường là loại 3 cánh, chiều dài cánh từ 20 đến 80 m. Turbin gió ngoài khơi thường có chiều dài cánh lên đến 80 m. Chiều cao cột turbin thường từ 70 đến 120 m và có thể lên đến 160 m. Công suất turbin phụ thuộc vào chiều dài cánh turbin và chiều cao cột turbin. Năm 2014, Đức có 44 loại turbin khác nhau. Loại turbin phổ biến nhất có mức công suất 2 – 3 MW. Công suất một turbin có thể lên đến 5 MW hoặc hơn [Fraunhofer IWES, 2014]. Quy mô một nhà máy điện gió có thể từ vài MW PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 249 đến vài trăm, thậm chí vài nghìn MW. Trang trại điện gió lớn nhất trên thế giới hiện nay là Gansu ở Trung Quốc, với tổng công suất là 6,000 MW. Đối với điện mặt trời, một modul năng lượng mặt trời là lắp ráp của các pin năng lượng mặt trời có kích thước 6 x 10. Một modul thường có dải công suất 100 đến 365 W. Quy mô nhà máy điện mặt trời có thể vài MW đến hàng trăm hoặc hàng nghìn MW. Nhà máy điện mặt trời lớn nhất hiện nay là nhà máy Tengger Desert đặt tại Trung Quốc, có mức công suất đặt là 1,500 MW. 4.2. Dự đoán xu hướng lựa chọn công nghệ và quy mô dự án của nhà đầu tư tại Đức Tính đến cuối năm 2016, tỷ lệ điện gió và mặt trời tại Đức chiếm khoảng 46% trong tổng cơ cấu nguồn điện với khoảng 195 GW công suất lắp đặt. Trong đó điện gió đất liền chiếm khoảng 23%, điện mặt trời 21% và điện gió ngoài khơi chiếm khoảng 2%. Có thể thấy, nhà đầu tư tại Đức nói chung đã có kĩ năng kinh nghiệm nhất định trong triển khai dự án điện gió đất liền và điện mặt trời. Điện gió ngoài khơi với chi phí sản xuất cao và đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ năng cao, hiện bắt đầu được chú trọng nghiên cứu đầu tư bởi các nhà đầu tư có năng lực. Bằng phân tích thực tế tích hợp năng lượng gió và mặt trời vào hệ thống điện của Đức và mục tiêu phát triển của quốc gia này trong tương lai, tác giả dự đoán xu hướng của lựa chọn quy mô và công nghệ của các nhóm nhà đầu tư tại Đức như sau: Công ty điện lực lớn, công ty xây dựng công trình điện quốc tế, ngân hàng quốc tế: sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các nhà máy điện gió ngoài khơi, đầu tư vào các dự án điện gió đất liền, điện mặt trời với quy mô đủ lớn. Công ty điện lực địa phương, công ty xây dựng công trình điện trong nước, ngân hàng thương mại trong nước, công ty điện độc lập: đầu tư vào các dự án điện gió đất liền, điện mặt trời với nhiều mức quy mô. Công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ tổ chức từ thiện, hộ công nghiệp, hộ thương mại: đầu tư vào các dự án điện gió đất liền, điện mặt trời với quy mô vừa và nhỏ. Hộ dân dụng, nông dân: đầu tư dự án điện gió đất liền, điện mặt trời với quy mô nhỏ. 5. ĐẦU TƯ ĐIỆN GIÓ, MẶT TRỜI TẠI VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Đầu tư điện gió, mặt trời tại Việt Nam Tại Việt Nam, tốc độ gió trung bình là từ 5.5 đến 7.3 m/s. Tiềm năng lý thuyết năng lượng gió ở độ cao 65 m lên đến 513,360 MW (Phan, et al., 2011). Tiềm năng điện mặt trời lớn với năng lượng bức xạ trung bình dao động từ 4 đến 5 kWh/m2/ngày. Tùy thuộc vào khu vực, số giờ nắng trung bình năm dao động từ 1,409 đến 2,543 giờ/năm, 250 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017 số ngày nắng dao động từ 270 đến 355 ngày/năm (Hán, 2011). Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn để sản xuất điện từ nguồn năng lượng gió và mặt trời. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2016, tổng công suất nguồn điện Việt Nam là khoảng 42,300 MW, trong đó công suất điện gió hòa lưới là 159.2 MW tương đương với 0.38% và chưa có điện mặt trời hòa lưới. Sự phát triển chậm của nguồn điện gió và mặt trời một phần là do nhà đầu tư thiếu nguồn lực, mặt khác rủi ro thách thức đầu tư lớn. Phần dưới đây phân tích thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư điện gió và mặt trời tại Việt Nam: Nguồn lực hạn chế Bảng 4 dưới đây giới thiệu 4 nhà máy điện gió đã đưa vào vận hành ở Việt Nam (GIZ, 2016). Bảng 4. Các nhà máy điện gió đã đưa vào vận hành ở Việt Nam Dự án Loại công nghệ Công suất (MW) Chủ đầu tư Loại nhà đầu tư Tổng vốn (triệu USD) Tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu Đơn vị cho vay Nhà máy Điện gió Bạc Liêu Gió gần bờ 99.2 Công ty TNHH Xây dựng, Thương mại và Du lịch Công Lý Công ty đa mục tiêu 260 85/15 Ngân hàng Phát triển Việt Nam Nhà máy Điện gió Phú Quý Gió đất liền 6 Công ty TNHH MTV Điện gió và Mặt trời điện lực dầu khí IPP 15 70/30 Nhà máy Điện gió Tuy Phong Gió đất liền 30 Công ty cổ phần Điện gió và Mặt trời Việt Nam IPP 52 70/30 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, được đảm bảo bởi Ngân hàng Baden- Wuerttemberg (Đức) PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 251 Dự án Loại công nghệ Công suất (MW) Chủ đầu tư Loại nhà đầu tư Tổng vốn (triệu USD) Tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu Đơn vị cho vay Nhà máy Điện gió Phú Lạc Gió đất liền 24 Công ty cổ phần Phong điện Thuận Bình IPP 52 80/20 Ngân hàng Tái thiết Đức (vốn ODA 35 triệu EUR) Như vậy, trong 4 nhà đầu tư điện gió có 3 nhà đầu tư thuộc nhóm công ty sản xuất điện độc lập, một nhà đầu tư là công ty đa mục tiêu và phần lớn vốn đầu tư là từ nguồn vốn vay. Các nhà đầu tư của Việt Nam còn chưa đa dạng, hơn nữa họ bị hạn chế về nguồn lực, cả về khả năng tài chính, đất đai, trình độ chuyên môn, kĩ năng và kinh nghiệm triển khai dự án điện gió và mặt trời. Môi trường đầu tư nhiều rủi ro và thách thức Mặc dù có tiềm năng năng lượng gió và mặt trời lớn, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác gặp phải vấn đề tốc độ gió, bức xạ năng lượng mặt trời không ổn định. Hơn nữa việc dự báo tiềm năng sản xuất điện từ các nguồn này ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và kém tin cậy. Về vấn đề công nghệ, tại những nhà máy điện gió đã đưa vào vận hành, hầu hết các thiết bị chính được nhập khẩu từ các quốc gia như Đức, Mỹ, Đan Mạch, Trung Quốc. Tùy thuộc và công nghệ được nhập khẩu từ quốc gia nào, chi phí thiết bị dao động rất đáng kể. Việt Nam có triển khai hỗ trợ nghiên cứu phát triển công nghệ điện gió và mặt trời, tuy nhiên hoạt động này còn đơn lẻ, rời rạc và chưa đạt hiệu quả. Về phía người mua, EVN có trách nhiệm mua toàn bộ lượng điện năng sản xuất từ các nhà máy điện gió và mặt trời (37/2011/QĐ-TTg). Đối thủ cạnh tranh của các nguồn điện gió và mặt trời là các nhà máy thủy điện, nhiệt điện than, turbin khí, nhiệt điện dầu. Hình 5 và Hình 6 dưới đây mô tả tỷ lệ đối thủ cạnh tranh và sức cạnh tranh về chi phí của các nguồn điện trong hệ thống điện Việt Nam. Hình 5: Tỷ lệ công suất lắp đặt các nguồn điện tại Việt Nam [EVN, 2015] 252 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017 Với LCOE trung bình ở múc 7.69 US cents/kWh cho điện gió đất liền, 8.92 US cents/kWh cho điện gió gần bờ, hai nguồn điện này có thể cạnh tranh về chi phí với điện từ turbin khí thông thường và nhiệt điện dầu. Hình 6: Chi phí sản xuất điện trung bình từ các nguồn khác nhau tại Việt Nam (2015) Về cơ chế, công cụ chính sách, hiện Việt Nam đã có cơ chế giá FIT, với 7.8 US cents/kWh cho điện gió đất liền (37/2011/QĐ-TTg), 9.35 US cents/kWh cho điện mặt trời (11/2017/QĐ-TTg). Hiện dự thảo điều chỉnh giá FIT cho điện gió đất liền và gần bờ đang được để xuất ở mức 8.77 US cents/kWh cho điện gió đất liền, 9.97 US cents/kWh cho điện gió gần bờ. Cơ chế công tơ hai chiều cũng sẽ được áp dụng từ năm nay cho điện mặt trời (11/2017/QĐ-TTg). Tại Việt Nam, các dự án phát triển và sử dụng điện gió và mặt trời được hưởng các ưu đãi về thuế như được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho dự án, thuế thu nhập doanh nghiệp, các ưu đãi về tín dụng đất đầu tư, ưu đãi về đất đai. Từ những phân tích về nguồn lực của nhà đầu tư, môi trường đầu tư có thể dự đoán xu hướng đầu tư của hầu hết các nhà đầu tư ở Việt Nam trong tương lai gần là các dự án điện gió đất liền và điện mặt trời quy mô vừa và nhỏ. 5.2. Đề xuất Kinh nghiệm của các quốc gia thành công về tích hợp năng lượng tái tạo vào thị trường điện cho thấy cơ chế, công cụ chính sách hợp lý là chìa khóa thành công cho phát triển nguồn điện gió và mặt trời. Các cơ chế liên quan đến chi phí (lãi suất vay, tỉ suất thuế, giá thuê đất) và doanh thu (giá FIT, hay giá theo cơ chế đấu thầu) đóng vai trò đòn bẩy cho tích hợp các nguồn điện này. Thiết lập cơ chế, công cụ hợp lý sẽ khắc phục được hạn chế về nguồn lực của nhà đầu tư đồng thời tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn. Tại Việt Nam, bên cạnh những chính sách đã có và đem lại hiệu quả, chúng ta cần đánh giá lại các cơ chế đã tồn tại nhưng chưa đem lại tác dụng, đồng thời nghiên cứu các công cụ chính sách chưa có nhưng cần thiết. Điều chỉnh FIT hàng năm là cần thiết PHÂN BAN NGUỒN ĐIỆN | 253 nhằm đưa ra mức giá FIT cập nhật, phù hơp. Khi chi phí sản xuất điện gió hoặc mặt trời giảm xuống đến mức nhất định, có thể cạnh tranh với các nguồn điện khác, cơ chế đấu thầu cho thấy hiệu quả về chi phí. Ngoài ra, tiêu chuẩn năng lượng tái tạo, chứng chỉ năng lượng tái tạo tạo là hai cơ chế nên được triển khai để tăng đầu tư điện gió và mặt trời từ nhóm các công ty điện lực. Để giảm sự phụ thuộc vào công nghệ sản xuất điện từ nước ngoài, giảm chi phí nhập khẩu thiết bị, đầu tư cho quỹ nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất điện gió và mặt trời là việc làm cần thiết. Các công cụ quan trọng khác như giảm lãi suất vay, tăng kì hạn, thời gian ân hạn đủ lớn sẽ khắc phục được hạn chế về nguồn tài chính cho nhà đầu tư. Hầu hết nhà đầu tư tiềm năng ở Việt Nam chưa có kĩ năng và kinh nghiệm, chuyên môn liên quan đến đầu tư, xây dựng vận hành nhà máy điện gió và mặt trời, tổ chức các khóa học nâng cao hiểu biết, kĩ năng cho nhà đầu tư nên được triển khai sớm. Ngoài các công cụ, cơ chế chính sách định lượng, các vấn đề liên quan đến văn bản thủ tục, thời gian xử lý các thủ tục về xin cấp phép đầu tư, vay vốn, thuê đất, mua bán điện cũng nên hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] N. T. Hán, "Đánh giá tiềm năng năng lượng mặt trời ở Việt Nam theo số liệu quan trắc khí tượng thủy văn", Đại học Khoa học Tự nhiên, Hà Nội, 2011. [2] T. T. Phan, C. M. Vũ and A. Waslelke, "Tình hình phát triển điện gió và khả năng cung ứng tài chính cho dự án điện gió ở Việt Nam", GIZ, Hà Nội, 2011. [3] Quyết định 2068/QĐ-TTg, “Phê duyệt Chiến lược phát triển điện gió và mặt trời của Việt Nam đến năm 2030”, của Thủ tướng Chính phủ, ngày 25/11/2015. [4] Quyết định 37/2011/QĐ-TTg, “Về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam”, của Thủ tướng Chính phủ, 29/06/2011. [5] Quyết định 11/2017/QĐ-TTg, “Về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam”, của Thủ tướng Chính phủ, 11/04/2017. [6] Quyết định 428/QĐ-TTg, “Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030”, của Thủ tướng Chính phủ, 18/03/2016. [7] Masini and E. Mechichetti, "The impact of behavioural factors in the renewable energy investment decision making process: Conceptual framework and empirical findings", Energy Policy, Elsevier, 2010. [8] A. Bergek, I. Mignon and G. Sundberg, "Who invests in renewalbe electricity production? Empirical evidence and suggestioins for further research" Energy Policy, Elsevier, 2013. [9] Y. Chang, Z. Fang and Y. Li, "Renewable energy policies in promoting financing and investment among the East Asia Summit countries: Quantitative assessment and policy implications", Energy Policy, Elsevier, 2016. 254 | HỘI NGHỊ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐIỆN LỰC TOÀN QUỐC 2017 [10] D. Nelson, M. Huxham, S. Muench and B. O'Connell, "Policy and investment in German renewalbe energy", CPI, 2016. [11] IRENA, "Unlocking renewable energy investment: the role of risk mitigation and structured finance", 2016. [12] GIZ, "Information Bac Lieu, Phu Quy, Phu Lac", 2016. [13] EEG, The renewable energy sources act in Germany, 2014. [14] EEG, The renewable energy sources act in Germay, 2016. [15] L. Werner and L. Scholtens, "Firm type, feed-iin tariff, and wind energy investment in Germany", Yale University, 2016. [16] X. Wang, "Achieving renewalbe energy targets at an affordable price", The World Bank, 2017.
File đính kèm:
- tong_quan_ve_dau_tu_dien_gio_mat_troi_va_de_xuat_cho_viet_na.pdf